TS.Hoàng Minh Tường (Sở Thông tin và Truyền thông Thanh Hoá)
Tục thờ là một bộ phận của đời sống văn hoá tinh thần của con người, đó là phương thức để cảm nhận được sự tồn tại của các vật thể, các lực lượng mang tính siêu nhiên, nó chi phối đời sống con người. Tục thờ được biểu hiện thông qua các biểu tượng giúp con người hướng tới, giao lưu, thông quan với các lực lượng siêu nhiên, đó là chất kết dính tập hợp con người và cả cộng đồng.
Cũng như các hiện tượng tự nhiên khác được con người thờ cúng, qua khảo sát ở một số địa phương ở tỉnh Thanh, tục thờ cá vốn có nguồn gốc từ xa xưa và cho đến hôm nay tục thờ này vẫn còn hiện hữu trong cuộc sống của cư dân một số làng ven sông biển.
Người Việt cổ tỉnh Thanh cư trú ở miền núi, trung du, đồng bằng và ven biển bao giờ cũng gắn liền với nước, vì vậy hình tượng nước được thể hiện khá sớm trên trống đồng và đồ đồng Đông Sơn. Ngạn ngữ của người Thái Có nước mới có cá/ Có mường mới có Tạo. Hình tượng cá biểu tượng của miền nước được in dấu ở trống và đồ đồng Đông Sơn với những con thuyền chở người đội mũ lông chim chèo thuyền trên sông nước cùng với cá và các loài chim nước như: Hạc, cò, sếu bay ngược chiều kim đồng hồ cho thấy hình tượng cá quan hệ mật thiết với nước và trở thành linh vật thiêng in dấu trên trống đồng để qua âm hưởng của tiếng trống thông linh trời đất, giúp con người giao cảm với thần linh.
Từ thời tối cổ cá luôn luôn là đối tượng được con người quan tâm. Cách đây khoảng 7000 năm, đồng bằng sông Mã với những tài nguyên phong phú, hấp dẫn đã lôi cuốn chủ nhân văn hóa Hòa Bình – Bắc Sơn ở vùng núi phía Tây Thanh Hóa rời khỏi hang động, mái đá xuống miền đồng bằng trước núi, làm nên văn hóa Đa Bút độc đáo và phong phú. Trong tầng văn hóa Đa Bút còn tồn tại rất nhiều xương cá biển. Đó là các loại cá đuối, cá ó, cá kìm, cá nheo… ở đây cũng tìm thấy nhiều hòn chì lưới bằng đá. Rõ ràng cư dân Đa Bút là những người giỏi đánh bắt cá biển. Người Đa Bút đã đi dọc theo sông Mã ra biển đánh cá. Cá đuối, cá ó… là những loài ăn sát đáy, ở gần bờ. Để đánh được loại cá này, người Đa Bút đã biết sử dụng lưới làm bằng các loại dây rừng có buộc chì bằng đá mài rãnh để kéo, quét lưới sát đáy biển. Người Đa Bút cổ còn biết sử dụng tre, nứa, luồng kết thành những chiếc bè mảng để đi lại trên sông, biển và đánh cá.
Thuộc văn hóa Đa Bút ở xã Vĩnh Tân, Vĩnh Lộc còn có di chỉ Cồn Cổ Ngựa xã Hà Lĩnh (Hà Trung). ở di chỉ này qua khảo cổ đã chứng minh cư dân nguyên thuỷ sống bằng nghề đánh cá. Các nhà khảo cổ tìm thấy đốt sống cá, tia vây cá… Tìm thấy chì lưới bằng đá phiến hình quả nhót, có khía rãnh để buộc dây với số lượng nhiều gấp đôi Đa Bút. Đó là những chứng tích của nghề đánh cá.
Với di tích Gò Trũng – hậu kỳ đá mới cách ngày nay khoảng 5000 năm, nằm sát di tích Hoa Lộc và cửa biển Lạch Trường. ở di chỉ này cũng bắt gặp phần nhiều xương cá biển, nơi tìm thấy nhiều chì lưới nhất hiện nay, họ còn sử dụng cả đất nung làm chì lưới, biết đan những tấm lưới bằng sợi gai hoặc những loại dây rừng khác. Người Gò Trũng còn có thể đóng được những chiếc thuyền gỗ bên cạnh bè truyền thống để ra khơi đánh bắt cá biển.
Với cư dân thuộc văn hóa Hoa Lộc, đời sống của họ gắn liền với sông biển như chì lưới, dấu vết xương cốt cá biển, hoa văn trên đồ gốm mang hình tôm, cá, vỏ sò, mắt lưới, sóng nước chủ nhân văn hóa Hoa Lộc còn có mối liên hệ, giao tiếp với các nền văn hóa vùng duyên hải và hải đảo xa.
Về cư dân chài lưới Thanh Hóa nói riêng và cư dân ven biển nước nói chung, khi xưa xuống nước thường vẽ mặt chạm hình để cho giống như con giảo long và các loài cá để lặn mò ngọc trai, đi dưới nước ba bốn mươi dặm mà không gặp loài vật hãm hại .
Đối với làng vạn chài – một loại hình làng của cư dân sinh sống trong các ghe thuyền trên sông nước, lấy nghề chài lưới làm chính, đánh bắt tôm cá, thu nhặt các loài nhuyễn thể (ốc, sò, hến); vào thời Nguyễn, Thanh Hóa có 13 làng: sông Mực 3, sông Chu 3, sông Mã 5 và sông Lèn 2, cư dân vạn chài luôn tôn thờ cá và các vị thuỷ thần.
Từ những kết quả khảo cổ học đã khẳng định cư dân Việt cổ xứ Thanh vốn gắn bó với nước và nền văn hóa sông biển và ở đó cá không chỉ đem lại nguồn sống cho họ mà từ sự biết ơn nguồn thuỷ hải sản quan trọng nuôi sống họ đã dần hình thành trong tư duy của người Việt cổ: cá trở thành đối tượng thờ cúng, tri ân của cư dân mưu sinh bằng nghề làm ruộng và khai thác thuỷ, hải sản.
Qua khảo sát một số làng từ biển, trên đôi bờ Mã Giang tới ngọn nguồn non cao, bắt gặp có nhiều di tích thờ cá hãy còn hiện hữu.
Tục thờ cá gắn với triều đại nhà Lý, với sự kiện Lý Thái Tổ (1010 – 1028) thân chinh đem quân đi đánh dẹp ở ái Châu. Thần tích đền Ngu Giang ở làng Yên Vực, Hoằng Long cho biết: “Thuyền từ cửa bể vào sông Ngu qua sông Mã thì bị mắc cạn. Vua đứng ở đầu mũi thuyền cầu thủy thần giúp đỡ. Chợt thấy một con cá lớn quẫy qua mũi thuyền, nước dâng lên, thuyền thoát nạn. Vua cho là sự lạ, sai lập đền thờ. Đối diện với làng Yên Vực là làng Tào Xuyên cũng có ngôi đền thờ vị thủy thần này.
Về tục thờ cá, Địa chí Hoằng Hoá cũng ghi rõ: Võng Nhi Cồn thuộc huyện Hoằng Hóa, làng thủy cơ này trước ở Tào Xuyên, xã Hoằng Lý sau chuyển sang Yên Vực, xã Hoằng Long. Tháng 2 âm lịch hàng năm, làng có lệ tế kỳ phúc. Họ cúng Đức ông Sông Nước, Hà Bá thủy quan, Long thần và thành hoàng Võng Nhi Cồn chính là thần cá đã giúp vua Lý thoát nạn. Cúng xong, họ cùng ăn uống vui chơi, mời phường tuồng, phường chèo về hát xướng hai ba ngày liền.
Làng Nhân Cao xưa có tên là Võng Ngư Phường, nghĩa là phường đánh bắt cá bằng chài lưới, sau đó làng đổi tên thành Ngư Lăng, nay là làng Nhân Cao, xã Thiệu Quang, Thiệu Hóa.
Võng Ngư Phường từ xưa thờ Long Trinh hiển ứng Chàng Vược tối linh Đại vương được tôn làm Đức Thánh Cả thờ tại nghè Thượng linh thiêng nổi tiếng. Một bận nhà vua đang đi thuyền trên sông Mã thì bất ngờ cuồng phong nổi lên, trời đất tối sầm, sóng lớn cuồn cuộn chực nuốt chửng thuyền rồng. Lúc đó vua và quần thần bỗng thấy có hai con cá Vược to lớn giúp thuyền vua Lê Hiển Tông (1740) vượt qua sóng to, gió lớn cập bến bình an. Ghi công của thần, vua Lê đã phong cho Đức Thánh Cả Ngư Võng Phường hai đạo sắc và giao cho dân Ngư Võng Phường lập nghè lớn phụng thờ, ban cho 5 roi vàng, 5 kiếm vàng làm đồ tế khí và xếp vào hàng quốc tế. Hàng năm từ ngày 8 tháng giêng có quan đại thần cùng một đội lính đích thân hành lễ. Tế lễ xong quan đại thần cùng đội tế xuống thuyền trở về kinh.
Nghè này được gọi là Nghè Thượng. Chính tẩm rộng ba gian, gian giữa đặt hương án, trên có đỉnh đồng, đồ thờ, phía trước có hạc gỗ và bát bửu. Trước hương án đặt cây phan là một đoạn tre còn đủ các cành. Khi làm lễ dùng dải lụa màu đỏ buộc 5 roi vàng, 5 kiếm vàng vào thân cây, treo một chiếc gương tròn lên cành tre, những ngày hội lễ cây phan được rước xuống thuyền về đình để tế lễ.
Trước ngày vào hội, ngày 23 – 28 tháng chạp âm lịch, cụ tiên chỉ và ông từ giữ nghè chọn ngày tốt, sau khi khấn vái cầu trời đất và các vị thần linh ở Nghè, vào giờ Tý cử hai người trai khỏe mạnh chèo thuyền ra sông Mã dùng gáo dừa múc nước sạch giữa dòng sông đổ đầy vò nước thờ rồi trở về nghè. Nước này dùng làm lễ mộc dục và là nước thờ quanh năm.
Cùng với tục rước nước thờ là tục kiêng ăn cá gáy. Cá gáy là sự hóa thân của Long Vương và là sự hiện diện của Long Trinh hiển ứng Chàng Vược tối linh Đại vương, vì vậy người dân Ngư Võng Phường kiêng ăn cá gáy trong suốt các tháng mùa xuân. Cùng với các tục trên còn có tục giã bánh giầy dâng cúng các vị thủy thần, tục làm cây phan, tục kết chạ giữa Ngư Võng Phường với làng Chè Hạ, nay là xã Hoằng Khánh, Hoằng Hóa.
Trước ngày lễ chính diễn ra ở Nghè Thượng, từ mùng 4 đến mùng 7 tháng giêng dân làng làm bánh giầy, ngày mùng 8 đón chạ Chè Hạ, ngày mùng 9 quan viên, chức sắc trong làng tế, ngày mùng 10 làng binh tế, ngày 11 giã giò, làm lễ phẩm và tổ chức bơi chải trên sông Mã, ngày 12 rước cây phan, thánh vị từ nghè Thượng về đình làm lễ đại tế. Nội dung bài văn tế như sau: … Quan viên, chức sắc, hương lão và toàn thể dân làng nay đến ngày xuân, lệ làng cầu phúc. Rước các thánh đến chốn đình trung. Toàn dân vái mừng, sửa sang bày đặt lễ nghi, hương đăng, lễ vật đặt trước giường rồng. Rước thánh Long Trinh hiển ứng Chàng Vược tối linh Đại vương. Rước thần Quảng Gia Đô Bác tối linh Đại vương. Rước đức thánh Sơn Tiêu Độc Cước ơn đức các ngài, phúc đến tai bay. Được hưởng niềm vui bốn mùa tươi sáng. Sinh được nhiều con trai, đời sống thịnh vượng. Được các vị gia ân, mong thái bình yên ổn. Xin các thần linh hạ cố, như chí khí thuở bình sinh, đó là ước muốn của toàn dân. Kính cáo!..
Từ ngày mùng 8 đến ngày 12 tháng giêng lễ hội diễn ra: rước nước, hát thờ thần gồm: hát chèo thuyền, hát giáo chân sào, múa đèn, đua thuyền trên sông Mã, đánh đu, chọi gà, múa lân, đánh cờ người thu hút đông đảo dân làng và khách thập phương tham dự, mang đậm dấu ấn của cư dân sống bằng nghề chài lưới và sản xuất nông nghiệp. Lễ hội làng Nhân Cao thờ Chàng Vược tối linh Đại Vương phản ánh ước vọng cầu ngư, cầu mùa và trị thủy của cư dân chài lưới và nông nghiệp bên dòng sông Mã.
Đồng bào dân tộc Mường làng Ngọc, xã Cẩm Lương, Cẩm Thuỷ từ bao đời nay cũng có tục thờ cá. Dòng suối Ngọc xuất hiện đàn cá có tới hàng nghìn con. Đàn cá lạ có đuôi, vây đỏ tía, mắt như chiếc nhẫn vàng lấp lánh, tiếng Mường gọi là cá Chẻn, bơi thành từng đàn trong dòng suối Ngọc uy linh. Tương truyền, cá Chẻn là hoá thân của Thuỷ phủ Long Vương Thượng đẳng Tôn thần đã có công giúp đỡ dân làng chiến thắng loài thuỷ quái từ biển khơi theo dòng sông Mã tràn lên phá hoại mùa màng. Người dân làng Ngọc không bao giờ đánh bắt và ăn thịt cá, đấy là điều cấm kỵ, dẫu cho nhiều khi trong nhà, ngoài ruộng không còn thứ gì để ăn sống qua ngày trong khi cá đầy suối Ngọc. Cá Chẻn đã được thiêng hoá thành cá thần và được dân làng phụng thờ. Hàng năm, lễ hội mở vào ngày 7 tháng giêng để tưởng nhớ công ơn Thần Cá – Thuỷ phủ Long Vương Thượng đẳng Tôn thần, cầu cho dân làng bình an, nhân khang vật thịnh.
Tục thờ cá phản ánh tín ngưỡng cầu nước cùa người Mường làng Ngọc, tôn thờ cá cũng chính là tôn thờ nước mà từ bao đời nay đã trở nên gắn bó, thân thiết giữa con người với đàn cá thần và dòng suối linh thiêng. Tục thờ cá chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống thường ngày cũng như tín ngưỡng tâm linh của họ.
Làng Ngư thuộc xã Thăng Long, huỵện Nông Cống, tương truyền xa xưa mênh mông trắng đồng nước do những con suối từ núi Nưa đổ về trong mùa mưa lũ. Thương cảm với nỗi vất vả của người dân lặn ngụp trong bể nước, không một cồn cao, tấc đất dung thân, một ngày kia có con cá chép khổng lồ đã hoá thân thành doi đất nhô cao giữa bốn bề sóng nước, giúp cho người dân nơi đây thoát cảnh ngập lụt tứ mùa. Ghi nhớ công ơn của thần cá, dân làng đã gọi nơi ở của họ là làng Ngư và lập đình, miếu thờ Thần Cá Chép vừa là thành hoàng, vừa là phúc thần che chở, trợ giúp cho dân lành. Hàng năm, vào tháng giêng lễ hội khai mở, thu hút đông đảo người dân ở đôi bờ sông Chuối dắt díu nhau vào hội tri ân công đức của Thần Cá, cầu cho phong đăng, hoà cốc.
Cư dân biển luôn có niềm tin vào những lực lượng của tự nhiên trợ giúp họ trong cuộc mưu sinh, chính vì vậy mà tục thờ cá Ông ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh của họ. Tục thờ cá có nguồn gốc từ lâu đời sau đó là thờ cá Voi gắn với cư dân sông nước, nghề chài lưới ở Bắc bộ nói chung, xứ Thanh nói riêng. Đông Hải Đại Vương là đền thờ cá Ông Voi của cư dân ven biển. Theo sách Thanh Hóa chư thần lục, Thanh Hóa có 8 làng thờ Đông Hải Đại vương cá Ông.
Từ lâu đời, ngư dân truyền tụng sự tích cá Voi do Phật Bà Quan Âm tạo cho hình hài to lớn và tăng thêm sức mạnh giúp ngư dân gặp nạn. Ngư dân rất tôn sùng và thờ cúng cá Ông. Những đền thờ cá Ông ở tỉnh Thanh đó là: làng Bạch Câu, Nga Bạch, huyện Nga Sơn; xã Ngư Lộc, Đa Lộc, Hưng Lộc, Hải Lộc huyện Hậu Lộc; xã Hoàng Trường, Hoằng Phụ, Hoằng Thanh huyện Hoằng Hoá; xã Quảng Cư, phường Trung Sơn, phường Trường Sơn thị xã Sầm Sơn; xã Quảng Nham, Quảng Thái huyện Quảng Xương; xã Hải Thanh, Nghi Sơn huyện Tĩnh Gia.
ở làng Diêm Phố thuộc xã Ngư Lộc, huyện Hậu Lộc đền thờ cá Ông được xây dựng năm 1739 có tiền đường, trung đường, hậu cung. Trong đền còn lưu giữ hai sắc phong của triều Nguyễn vào năm Đồng Khánh thứ 2 (1887) và năm Khải Định thứ 9 (1924) ghi công của “Trừng Kham Dực Bảo Trung Hưng Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lâm tôn thần. Vì ngài đã có công bảo vệ đất nước, che chở nhân dân nhiều lần tỏ rõ sự linh ứng…” (Vị thần của những loài thủy tộc, kỳ lân vĩ đại ở biển Nam Hải). Đồ thờ có kiệu gỗ, long ngai và một thuyền rồng bằng đá, bộ xương cá Voi rất lớn được đặt trong hòm kính để thờ. Tiền đường có bức đại tượng cổ chạm khắc công phu ghi ba chữ “Vạn Cổ Hương” với tứ linh, tứ quý chạm chìm. Trên hương án có tượng cá Ông không lớn tạc bằng gỗ, diễn tả cá Ông đang vươn mình lướt trên những đợt sóng lớn, làm bệ đỡ cho chiếc chiêng cổ, nhạc cụ dùng trong lễ tế đức Ông Nam Hải.
Ngày 22, diễn ra rước kiệu thờ đón cá Ông và các vị thuỷ thần về đàn tế. Đi đầu đám rước là đội múa lân, phường bát âm và cờ hội, tiếp đến là kiệu Phật, kiệu Nẹ Sơn tôn thần (vua Thuỷ phủ), kiệu Tứ vị Thánh nương, kiệu cá Ông. Sau khi làm lễ yên vị, theo thứ tự các cụ trong hội đồng bô lão, cụ tiên chỉ, các chức sắc trong làng vào lễ trước, sau đó là các dòng họ, bà con dân làng và khách thập phương lần lượt vào lễ.
Sáng ngày 24 tại đàn lễ, 21 trống cái và trống con nhất tề tấu lên điệu trống tế, đội bát âm tấu điệu Lưu thuỷ. Dân làng tề tựu đông đủ khói hương nghi ngút hướng tâm linh của người dự lễ tới hội đồng thần linh thủy phủ và cá Ông. Tại đàn lễ, hương án cá Ông đặt chính giữa. Đúng 12 giờ trưa (chính Ngọ) sau một hồi 3 tiếng khai trống các màn diễn và nghi thức tế lễ tiến hành. Mở đầu là đội múa lân, tiếp đó là đội tế của làng. Chủ tế chắp tay hướng vào đàn vái lễ, sau mỗi lần vái chiêng trống liền phụ họa, dân làng theo nhịp trống vái theo, tiếp đến tế lễ, đọc chúc văn rồi hoá chúc. Tiếp đó, thầy cúng hành lễ vào khoa giáo cúng cháo chúng sinh, làm lễ giao ôn tại Long Châu. Tế lễ xong các mũ ngũ sắc được đưa xuống Long Châu cùng với các lễ vật như gạo muối, thuốc lào, bí ngô (bầu lào) và những vật dụng thiết yếu của ngư dân trong những lần đi biển. Lễ tất, quan khách và dân làng làm lễ tiễn Long Châu, đi đầu là hai ông hộ pháp cùng với bó đuốc lớn dẫn đường. Rước Long Châu do 36 trai làng đảm nhiệm đi dọc bờ biển tiến về phía cuối làng. Hai bên đường dân chúng nô nức kéo ra, mọi người hướng về thuyền rồng bái lạy với lòng thành kính. Trong khi đó các kiệu thờ được rước hoàn cung về khu di tích. Đến hết địa phận làng Diêm Phố người ta đi thuyền đến cửa biển, chỗ giao lưu của thuỷ triều nơi nước sông gặp nước biển để tiễn Long Châu. Ngày nay nghi thức này đã thay đổi, thay vì tiễn Long Châu trên biển người ta hoá Long Châu ngay bờ biển, sát với chân sóng. Dân làng tin rằng cá Ông và các vị thủy thần sẽ phù hộ độ trì cho thuyền bè của họ xuôi chèo mát mái, cuộc sống no đủ, bình yên, hạnh phúc.
Trong lễ hội cầu ngư dân làng thường tổ chức bơi thuyền làm đẹp lòng cá Ông và các vị thần biển, vừa để rèn luyện sức khoẻ dẻo dai, sự lanh lợi của ngư dân làm nghề chài lưới trên sông biển. Cùng với đua thuyền, các trò chơi, trò diễn dân gian cũng diễn ra sôi động như: trò đánh tùm, hò đẩy thuyền, hò quăng chài thả lưới, thi hát ghẹo, đối đáp nam nữ với các khúc hát: hát dạo, hát mừng, hát thăm, hát đối, hát đố, hát xe kết, hát thề, hát thăm và hát tiễn. Ngoài ra còn có thi: câu mực, đan lưới, chắp quại thu hút nhiều người tham dự. Xưa, trong lễ hội còn tổ chức hát bội (hát tuồng) tại đền thờ cá Ông.
Lễ hội nghè Diêm Phố là lễ hội cầu ngư của những người dân biển thờ cá Ông và các vị thần biển, cầu cho sóng lặng gió êm, đánh bắt được nhiều tôm cá.
Cùng với thờ cá Ông là tục thờ cá Bà ở làng Hiếu Hiền, xã Hải Châu, huyện Tĩnh Gia. Cá Bà là vị thần cá đã có công giúp đỡ ngư dân ra khơi vào lộng bình yên, đánh bắt được nhiều tôm cá. Ghi sâu công đức của thần cá, hàng năm lễ hội làng Hiếu Hiền theo lệ cổ diễn ra trong 3 ngày, từ ngày 4 đến ngày 7 tháng giêng. Sáng ngày mùng 4 theo lệ, cụ từ, các vị chức sắc, những người già tập hợp ở đình làng đi ra đền Sát Hải Đại vương, miếu Thần cá Bà rước các ngài về đình tế lễ.
Ngày mùng 7 chính hội, từ sáng sớm sau khi chọn được giờ tốt, đám rước bắt đầu khởi hành. Dẫn đầu đoàn là các trai đinh cầm cờ, biển, đồ bát bửu, tiếp đó dàn bát âm vừa đi vừa tấu nhạc. Kiệu bát cống gồm 16 thiếu nữ rước thần cá Bà cùng với các đồ tế khí: long đao, dùi đồng, phủ việt. Kiệu Sát Hải Đại vương trên đặt thánh vị và khoác hoàng bào, mũ, hài thêu kim tuyến trông rất oai vệ, bên trên có lọng vàng. Đi sau kiệu là chức sắc, các cụ già, dân làng và du khách.
Đoàn rước diễu hành một vòng quanh làng. Hai bên đường bà con chắp tay bái lạy kiệu thần, kiệu thánh. Sau khi về đến đình làng và làm lễ yên vị, dân làng và khách thập phương lần lượt làm lễ tế Thần cá Bà và các vị thần linh. Lễ vật gồm: cỗ tam sinh, bánh chưng, xôi gà, oản, các loại bánh làm bằng bột lọc với mật mía và hoa quả. Các trò chơi dân gian tổ chức trong ngày hội có thi nấu cơm, đấu vật, chơi đu, đánh cờ người, chọi gà, hát chèo, hát đối đáp nam nữ . Đặc biệt hội đua thuyền trên sông Hàn (Lạch Ghép) trước làng thu hút đông đảo người dân về dự và được bà con nhắc nhớ:
Mùng bốn đi chợ mà chơi
Đến ngày mùng bảy coi bơi Hiếu Hiền.
Tục thờ cá là tục thờ độc đáo nằm trong hệ thống thờ phụng các vị thủy thần, đó là hệ thống thần linh sơ khai của người Việt cổ, gắn với xã hội nông nghiệp: cầu mưa, cầu mùa; gắn với cư dân chài lưới: cầu ngư, cầu sóng yên biển lặng, không bão tố lụt lội, mong thần linh chở che, bảo hộ cho những người mưu sinh trên sông nước mỗi khi ra khơi vào lộng, giúp đỡ những thương thuyền buôn bán ngược xuôi.
Đề cao, biết ơn tự nhiên của con người thông qua biểu tượng cá từ bao đời nay đã được người dân chiêm bái, phụng thờ. Thiêng hoá cá chính là tôn trọng tự nhiên, thân thiện với môi trường sông biển trong một triết lý hoà để thiên nhiên đem lại nguồn lợi, phục vụ cho cuộc sống của con người chính là thế ứng xử khôn ngoan mà từ xa xưa cha ông ta đã dạy. Tục thờ cá ở tỉnh Thanh cần tiếp tục được bảo tồn, phát huy tác dụng để phục vụ cuộc sống.
