Nguyễn Thái Hòa (Khoa Di sản văn hóa, Trường Đại học Văn hóa Tp. Hồ Chí Minh)
Tín ngưỡng thờ thần Tài là một trong những tín ngưỡng phổ biến nhất ở Trung Quốc hiện nay, có thể thấy ở khắp mọi nơi, từ trong các ngôi chùa, am miếu, đạo quán… cho đến các hộ gia đình và đặc biệt là trong các cửa hàng buôn bán. Vì vậy mà tín ngưỡng này, đã thu hút không ít sự quan tâm của giới học giả Trung Quốc qua các thời kỳ trong việc nghiên cứu về nguồn gốc cũng như những biến chuyển của nó.
1. Căn nguyên ra đời của tín ngưỡng thần Tài
Nhà Dân tộc học Ô Bính An, trong “Trung Quốc dân gian tín ngưỡng”, đã nói đến việc sùng bái thần Tài với tư cách là một trong những tín ngưỡng dân gian phổ biến nhất. Nhưng ông cũng cho rằng, nguồn gốc của tín ngưỡng này là không thể truy về căn nguyên, nguồn cội[1].
Lý giải cho nguyên nhân này, theo học giả Lý Dược Trung trong sách “Tài thần”, là do ảnh hưởng của Nho giáo, người Trung Quốc đặc biệt trong thời cổ đại, thường coi khinh danh lợi và tiền tài, nhưng chữ “nghĩa” trong lợi nghĩa lại được coi trọng. Do luân lí đạo đức coi nghĩa trọng hơn lợi còn ăn sâu trong tư tưởng truyền thống của Trung Quốc, nên khuynh hướng sùng nghĩa và coi thường tài lợi luôn là tư tưởng chủ lưu của văn hóa truyền thống ở quốc gia này. Tục ngữ Trung Quốc có câu: “Tiền tài như rác rưởi, nhân nghĩa đáng ngàn vàng”.
Giá trị này là quan điểm chủ đạo trong thời Khổng Tử. Ông nói: “Quân tử vì nghĩa, tiểu nhân vì lợi”. Mạnh Tử trong “Luận Ngữ. Lí Nhân” cũng nói với Lương Huệ Vương: “Vương hà tất nói về việc lợi, cũng chỉ là nhân nghĩa mà thôi”… Đến các thời Tống, Minh các nhà Lý học cho rằng, truyền thống Nho giáo lấy nghĩa để tìm lợi dẫn đến phá hoại nhân tính, như Chu Hy trong “Chu Tử ngữ loại”, quyển 12, chủ trương “Minh thiên lý, diệt nhân dục”. Họ cho rằng, trong giá trị nhân sinh, đời sống đạo đức là cao quý nhất, theo đuổi một cuộc sống đạo đức là mục tiêu cao nhất của con người và là con đường duy nhất của giá trị, do đó đời sống đạo đức cao hơn đời sống vật chất.
Do ảnh hưởng của quan niệm truyền thống đạo đức nêu trên, từ hàng ngàn năm nay, người Trung Quốc thường cảm thấy sẽ rất tầm thường khi nói đến “lợi”, dường như mỗi khi nói đến vấn đề lợi ích thì nhân cách của con người bị hạ thấp, đời sống đạo đức và đời sống vật chất được ví như nước với lửa[2].
Nhưng trên thực tế, cũng theo học giả Lý Dược Trung, đây chỉ là nhận thức của một số người thời cổ đại, bởi vì sự sinh tồn và phát triển của con người không thể tách khỏi lợi ích vật chất, “Có thực mới vực được đạo”, như Tư Mã Thiên, một nhà sử học nổi tiếng của Trung Quốc, là người đầu tiên nói về thuộc tính lợi ích của “Tài” trong tác phẩm “Sử Ký”: “Thiên hạ hi hi, giai vị lợi lai; Thiên hạ nhưỡng nhưỡng, giai vị lợi vãng”[3] (đại ý là: thiên hạ ồn ào, nhộn nhịp cũng đều vì lợi). Ông cũng cho rằng, hành vi của con người trong việc mưu cầu tài lợi là một hiện tượng xã hội bình thường, “Hợp với Đạo”, “Ứng với tự nhiên”[4]. Tục ngữ Trung Quốc cũng có câu: “Người vì tham tài mà chết, chim vì thức ăn mà vong”. Do đó, khát vọng mong muốn về của cải vật chất thường rất mãnh liệt.
Vì mong muốn có được của cải, con người ngoài việc dựa vào sức lao động chính đáng của mình, cũng ảnh hưởng bởi qua niệm “Vạn vật hữu linh”, hy vọng những vị thần linh về tài phú sẽ phù hộ và đem đến nhiều may mắn…
Ngay trong Phật giáo, một tôn giáo luôn khuyên răn con người từ bỏ những tham, sân, si, hỉ, nộ, ái, ố để có thể đạt tới trạng thái “niết bàn”, nhưng cũng phải hòa đồng vào cuộc sống thực tại của thế giới vật chất, với chủ trương “lấy có đạo, dùng có đạo”. Và để thuận ứng với tâm lý muốn sung túc, đủ đầy của số đông quần chúng và cũng là để làm lợi cho chúng sanh, Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo Mật Tông đã đặt ra rất nhiều vị thần Tài cùng những pháp môn tu luyện tương ứng, nhằm thoả mãn nguyện vọng của tín đồ… Tất cả những điều trên, là một trong những nguyên nhân khiến con người đã “sáng tạo” nên loại hình sinh hoạt tín ngưỡng thờ thần Tài.
2. Thần Tài xuất hiện từ khi nào?
Như đã đề cập ở trên, nguồn gốc của tín ngưỡng thờ thần Tài là không thể truy nguyên, chỉ có thể tin hoặc không mà thôi. Bởi cho đến nay, giới học giả Trung Quốc vẫn chưa đưa ra được những lý lẽ thuyết phục về vấn đề này. Do vậy mà một vài học giả khi bàn về tín ngưỡng thần Tài thường tránh đi, hoặc cũng chỉ đề cập đến một cách sơ lược. Nhưng cũng có không ít học giả đã đưa ra cái nhìn của họ đối với vấn đề này. Như Lưu Thiệu Minh trong “Tài thần Phạm Lãi khảo”, đã trích dẫn một cách tỉ mỉ những ghi chép về Phạm Lãi trong các cuốn sách kinh điển của Đạo giáo cũng như việc thờ cúng của dân gian đối với Phạm Lãi, phân tích những nguyên nhân mà Phạm Lãi trở thành một vị thần Tài trong Đạo giáo…[5].
Ở Trung Quốc hiện nay, các quan điểm phổ biến đều cho rằng, từ thời Minh đã có tín ngưỡng thờ thần Tài. Nhưng trên thực tế, từ thời nhà Tống, thương nghiệp Trung Quốc đã phát triển. Dựa trên những ghi chép về thời kỳ này, học giả Lã Uy đã khảo chứng và đưa ra quan điểm: “Trong hệ thống chư thần của tín ngưỡng dân gian, thần Tài là một trong những vị thần linh xuất hiện muộn nhất. Nguồn gốc của thần tài chỉ có thể truy đến thời Bắc Tống”[6]. Cụ thể hơn, học giả Thương Thánh trong “Tài thần đồ thuyết” cho rằng, từ đầu thời Tống, trong dân gian đã xuất những truyền thuyết về Mã Tài và Mã Lộc. Mã, để phiếm chỉ con vật có thần lực, có sức mạnh đặc biệt và Mã Tài chính là tượng trưng cho tài phú. Mặc khác, dân gian cũng rất coi trọng “Lộc”, bởi vì “Lộc” cũng có ý là tài… Về sau, “Lộc” và “Tài” từng bước tách riêng, dân gian đối với “Tài” cũng có những nhận thức mới[7]. Còn theo học giả Lý Dược Trung trong sách “Tài thần”, thì từ thời Tống đã sớm xuất hiện vị thần chuyên về tài lợi là Lợi Thị Tiên Quản. Sang thời Nguyên, cũng có Bà thần[8] của Lợi Thị Bà Quản[9]. Chỉ đến thời Minh, mới xuất hiện truyền thuyết về vị thần của Chiêu Tài Tiến Bảo Lợi Thị là Triệu Công Nguyên Soái, tức Triệu Công Minh, với danh hiệu: “Kim Long Như Ý Chính Nhất Long Hổ Huyền Đàn Chân Quân” và cũng gọi là “Triệu Huyền Đàn”. Vị thần này có 4 vị thuộc hạ, đó là Chiêu Bảo Thiên Tôn Tào Thăng, Nạp Trân Thiên Tôn Tào Bảo, Chiêu Tài Sứ Giả Trần Cửu Công, Lợi Thị Tiên Quản Oa Thiếu Tư. Các vị này đều là thần chuyên về tiền tài châu bảo, do Triệu Công Minh đứng đầu. Cũng theo học giả Lý Dược Trung, dân gian do chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết thần quái thời Minh là “Phong thần diễn nghĩa”, nên rất tin cẩn đối với vị thần này. Đặc biệt dưới thời Minh – Thanh, miếu thần Tài được dân gian chăm lo, hương khói cực thịnh. Những người buôn bán, hàng năm đều tổ chức lễ tế thần[10].
Hình tướng của vị thần này là mặt đen, râu rậm, tay cầm roi sắt, ngồi trên con hổ đen và được xem là một vị võ tướng. Cho nên trong dân gian, tục gọi là “võ thần tài”. Nhưng trên thực tế, ngay từ thời Tấn, trong dân gian Triệu Công Minh đã sớm được xem là một vị tướng quân thần minh, thống lĩnh minh giới chiêu mộ âm binh và không hề liên quan đến tài lợi. Sang các thời Tùy, Đường, Tống, Nguyên Triệu Công Minh lại là một trong 5 ôn thần của quỷ ôn dịch trên thượng giới. Và chỉ đến thời Minh, Triệu Công Minh mới trở thành một vị thần Tài mà dân gian sùng bái. Còn trong truyền thuyết của Đạo giáo, vào thời Tần, Triệu Công Minh là vị thần tiên đã tu thành đạo và được Ngọc Đế phong cho chức Thần Tiêu Phó Sư. Sang thời Hán, theo mệnh lệnh của Ngọc Đế, Triệu Công Minh là người chuyên coi giữ lò luyện đan, được phong là “Chính Nhất Huyền Đàn Nguyên Soái”, hay gọi là Triệu Công Nguyên Soái[11].
Đồng thời với việc sùng bái Triệu Công Nguyên Soái, dân gian cũng sùng bái văn thần Tài, tức Tài Bạch Tinh Quân hoặc cũng gọi là Tăng Phúc Tài Thần. Vị thần này được xem như là Thiên quản của Phúc thần, với hình tượng mặc áo hồng bào, khuôn mặt hiền từ phúc hậu, râu dài.
Bước sang thời cận đại, thần Tài trong tín ngưỡng dân gian Trung Quốc được gán ghép thêm nhiều nhân vật truyền kỳ theo truyền thuyết địa phương như Lưu Hải, Hòa Hợp Nhị Tiên, Ngũ Lộ Thần Tài… trong đó, phổ biến nhất là văn thần Tài Tỉ Can, Phạm Lãi. Ngoài ra, Quan Vũ cũng được xem là một võ thần Tài và được thờ cúng cho đến ngày nay.
3. Phân loại thần Tài
Tín ngưỡng thần Tài là một trong những tín ngưỡng dân gian phổ biến nhất ở Trung Quốc. Nhưng do trải qua các thời kỳ, ở các địa phương khác nhau nên việc nhận thức về thần Tài vì thế mà không hoàn toàn giống nhau. Thần Tài không phải là “một” (vì có rất nhiều vị được dân gian xem là thần Tài), nhưng cũng là một (để chỉ danh hiệu một vị thần luôn đem lại tài lợi, phúc vận cho dân gian).
Việc phân chia các nhóm thần Tài, giới học giả Trung Quốc cũng có những quan điểm khác nhau. Như học giả Vương Thế Trinh trong sách “Tế thuyết Trung Quốc dân gian tín ngưỡng” cho rằng: thần Tài phân làm hai, văn thần Tài và võ thần Tài. Văn thần Tài là “Tăng Phúc Tài Bạch Tinh Quân”…, võ thần Tài thì mọi người đều biết đó là Quan Vũ. Trong thần Tài lại có: Chính thần Tài và Thiên thần Tài (偏财神)[12]. Chính thần Tài, “luận về tên tuổi thì thiên hạ đệ nhất” Triệu Công Minh Huyền Đàn Nguyên Soái. Còn Thiên thần Tài, đó là Ngũ Lộ Thần Tài[13]. Tuy không phân chia Chính-Thiên thần Tài như học giả Vương Thế Trinh, nhưng học giả Vương Khang trong sách “Tài, Tài thần, Tài vận: Trung Quốc dân gian chiêu tài tập tục” cũng xếp Triệu Công Minh làm “Tài thần chi chủ”, và xếp trên văn thần Tài (Tỉ Can), võ thần Tài (Quan Vũ) là: Ngũ Hiển Thần, Ngũ Đạo Thần, Ngũ Lộ Thần và Lợi Thị Tiên Quản[14]. Còn trong sách “Tài thần tín ngưỡng” của Lã Uy thì phân các vị thần Tài của Trung Quốc thành 3 nhóm: Chính thần Tài (bao gồm võ thần Tài và văn thần Tài), Thiên thần Tài và Chuẩn thần Tài (准财神)[15]. Ông cũng đã khảo chứng rất tỉ mỉ về Triệu Công, Quan Vũ, Tỉ Can, Phạm Lãi, Ngũ Lộ Thần…[16]. Nhưng trên thực tế, cách phân chia của ba học giả trên còn chưa hợp lý, bởi ngoài các nhóm thần Tài như đã nêu, thì trong gian dân cũng thờ cúng rất nhiều vị thần Tài của Phật giáo. Vì thế mà theo học giả Lý Dược Trung trong sách “Tài thần”, ông chia thành 3 nhóm: Văn – Võ thần Tài (Văn có: Tỉ Can, Phạm Lãi; Võ có Triệu Công Minh, Quan Vũ), Chuẩn thần Tài (có Tài Bạch Tinh Quân, Lưu Hải, Hòa Hợp Nhị Tiên, Ngũ Lộ Thần…) và thần Tài Phật giáo (có Bảo Sanh Phật, Bảo Tạng Thần, Đa Văn Thiên Vương, Bố Đại Hòa Thượng…)[17]. Đồng tình với cách phân chia này, có sách “Tài thần” do hai học giả Lưu Khôi Lập và Trương Húc chủ biên.
Ngoài các cách phân chia ở trên, cũng có không ít học giả chia thần Tài Trung Quốc thành 2 nhóm lớn là: thần Tài dân gian và thần Tài Phật giáo, như Mã Thư Điền, Mã Thư Hiệp trong “Toàn tượng Phúc Thọ Tài thần”[18] và Thương Thánh trong “Tài thần đồ thuyết”[19]. Trong nhóm thần Tài dân gian, các học giả nói trên sắp xếp thứ tự các vị thần Tài căn cứ vào mức độ phổ biến được dân gian thờ phụng, không phân biệt Chính thần Tài, Thiên thần Tài và Chuẩn thần Tài. Song, học giả Thương Thánh không xếp Quan Vũ vào nhóm Võ thần Tài mà là Nghĩa thần Tài…
Như vậy cho đến nay, những vấn đề về căn nguyên của tín ngưỡng thần Tài, thần Tài xuất hiện từ lúc nào và việc phân loại thần Tài ra sao, giới học giả Trung Quốc vẫn chưa thống nhất, chưa có những khảo chứng một cách tường tận, công phu, bài bản và có hệ thống. Nhưng đa số các học giả đều thống nhất một thực tế rằng, hiện nay trong dân gian, nhóm thần Tài được thờ phụng phổ biến nhất đó là: Văn thần Tài: Tỉ Can, Phạm Lãi, Võ thần Tài: Triệu Công, Quan Vũ.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN VÀ THAM KHẢO
1. Lý Dược Trung (2009), Tài thần, Nxb. Xã hội Trung Quốc, Bắc Kinh.
李跃忠 (2009), 《财神》, 北京:中国社会出版社。
2. Lưu Khôi Lập, Trương Húc (chủ biên) (2010), Tài thần, Nxb. Xã hội Trung Quốc, Bắc Kinh.
刘魁立,张旭 (主编) (2010), (财神),北京:中国社会出版社。
3. Thương Thánh (2005), Tài thần đồ thuyết, Nxb. Mỹ thuật Hắc Long Giang, Cáp Nhĩ Tân.
仓圣 (2005), (财神图说),哈尔滨:黑龙江美术出版社。
4. Lưu Trọng Vũ (2005), Chính phùng thời vận: Tiếp Tài thần dữ thị trường kinh tế, Nxb. Từ điển Thượng Hải, Thượng Hải.
刘仲宇 (2005), (正逢时运:接财神与市场经济), 上海:上海辞 书出版社。
5. Mã Thư Điền, Mã Thư Hiệp (2008), Toàn tượng Phúc Thọ Tài thần, Nxb. Mỹ thuật Giang Tây, Nam Xương.
马书田,马书侠 (2008), (全像福寿财神), 南昌:江西 美术出 版社。
6. Vương Khang (2009), Tài, Tài thần, Tài vận: Trung Quốc dân gian chiêu tài tập tục, Nxb. Nhân dân Tứ Xuyên, Thành Đô.
王康 (2009), (财,财神,财运:中国民间招财习俗), 成都:四川 人民出版社。
7. Kim Khai Thành (chủ biên) (2009), Táo thần, Môn thần, Tài thần, Nxb. Văn sử Cát Lâm.
金开诚 (主编) (2009), 《灶神, 门神, 财神》, 吉林文史出版社.
8. Kim Khai Thành (chủ biên) (2010), Văn hóa tín ngưỡng, Nxb. Văn sử Cát Lâm.
金开诚 (主编) (2010), 《信仰文化》, 吉林文史出版社.
9. Trí Hoài, Vương Thiểu Nông, Tiêu Dã (2010), Tín ngưỡng của người Trung Quốc, Nxb. Đoàn Kết, Bắc Kinh.
智怀, 王少农, 萧野 (2010), 《中国人的信仰》, 北京: 团结出版社.
10. Trần Thái Tiên (2011), “Nguồn gốc của các vị thần”, Bắc Kinh, Nxb. Hoa Kiều Trung Quốc. 陈泰先 (2011),《神的由来》,北京:中国华侨出版社
[1]. Dẫn theo: Lý Dược Trung (2009), Tài thần, Nhà xuất bản Xã hội Trung Quốc, Bắc Kinh, tr.1. (李跃忠 (2009), 《财神》, 北京:中国社会出版社, 1 页。)
[2]. Lý Dược Trung (2009), sđd, tr.4.
[3]. Dẫn theo Mã Thư Điền, Mã Thư Hiệp (2008), Toàn tượng Phúc Thọ tài thần, Nhà xuất bản Mỹ thuật Giang Tây, Nam Xương, tr.155. (马书田,马书侠 (2008), 《全像福寿财神》,南昌:江西美术出版社,155页。)
[4]. Mã Thư Điền, Mã Thư Hiệp (2008), sđd, tr.155.
[5]. Dẫn theo: Lý Dược Trung (2009), sđd, tr.3.
[6]. Dẫn theo: Lý Dược Trung (2009), sđd, tr.15.
[7]. Thương Thánh (2005), Tài thần đồ thuyết, Nhà xuất bản Mỹ thuật Hắc Long Giang, Cáp Nhĩ Tân, tr.2. (仓圣 (2005), 《财神图说》,哈尔滨:黑龙江美术出版社,2 页。)
[8]. Từ nguyên gốc là: 奶奶神 (âm Hán Việt: Nãi nãi thần). Theo Từ điển Hán Việt (Phan Văn Các (chủ biên) (2008), Nxb Tổng hợp Tp.HCM, tr.1043) giải thích thì “Nãi nãi” có 3 nghĩa: 1. Bà nội; 2. Bà (gọi những người ngang vai, ngang tuổi với bà nội; 3. Bà trẻ (gọi các con gái đã lấy chồng và vợ các con trai nhà quan thời trước.
[9]. Từ nguyên gốc là: 利市婆官 (âm Hán Việt: Lợi Thị Bà Quản). Theo Từ điển Hán Việt (sđd, tr.1120) giải thích: “Bà” có 3 nghĩa: 1. Bà (chỉ người đàn bà lớn tuổi); 2. Bà (trước đây chỉ người đàn bà làm một số nghề); 3. Mẹ chồng.
[10]. Lý Dược Trung (2009), sđd, tr.1-2.
[11]. Lưu Khôi Lập, Trương Húc (chủ biên) (2010), Tài thần, Nhà xuất bản Xã hội Trung Quốc, Bắc Kinh, tr.2.
刘魁立,张旭(主编)(2010),《财神》,北京:中国社会出版社,2页。)
[12]. 偏: Âm Hán Việt là: Thiên. Theo Từ điển Hán Việt (sđd, tr.1103) giải thích thì Thiên có 5 nghĩa, trong đó nghĩa thứ 3 là: Trợ giúp/phụ/phó.
[13]. Dẫn theo Lý Dược Trung (2009), sđd, tr.24.
[14]. Vương Khang (2009), Tài, Tài thần, Tài vận: Trung Quốc dân gian chiêu tài tập tục, Nhà xuất bản Nhân dân Tứ Xuyên, Thành Đô, tr.2. (王康 (2009),《财,财神,财运:中国民间招财习俗》,成都:四川人民出版社,2 页。)
[15]. Chuẩn thần Tài: để chỉ những vị thần Tài không được phong hiệu, nhưng dân gian vẫn tin tưởng họ có công đức và chức trách chuyên về tài lợi, có thể vì con người mà mang lại tài vận, vì thế mà các vị thần này cũng được thờ phụng làm thần Tài.
[16]. Dẫn theo: Lý Dược Trung (2009), sđd, tr.24.
[17]. Lý Dược Trung (2009), sđd, tr.22-121.
[18]. Mã Thư Điền, Mã Thư Hiệp (2008), sđd, tr.155-273.
[19]. Thương Thánh (2005), sđd.
