Hoàng Thị Tuyết Mai*
1. Cấp sắc – cấp pháp danh cho người thụ lễ
Lễ cấp sắc trong tiếng Dao tiền được gọi là quá tang (treo đèn), là nghi lễ công nhận sự trưởng thành của người đàn ông Dao. Ngày hành Lễ cấp sắc thường được tổ chức vào những tháng cuối của năm, từ rằm tháng bảy trở đi. Thầy mo là nhân vật quan trọng trong buổi lễ, còn gọi là thầy tào hoặc thầy thụ lễ. Một lễ cấp sắc có tất cả bốn thầy: hai thầy chính là khai giao và tổng giao, hai thầy phụ là ca nhụn. Thầy mo là người trung gian xin thần linh cấp pháp danh cho người thụ lễ.
Để làm lễ cấp sắc, người được thụ lễ phải có đủ điều kiện về tuổi tác, kinh tế, phẩm chất, đạo đức…. Các “điều kiện” ở đây thực chất là những qui ước ngầm, thường do thầy mo đánh giá hoàn toàn bằng cái nhìn chủ quan và kinh nghiệm cá nhân. Cộng đồng phó thác trách nhiệm lớn lao và toàn tâm toàn ý tin tưởng vào quyết định của thầy mo.
Cũng giống như người Dao đỏ và người Dao áo dài cư trú ở những khu vực khác của vùng Đông Bắc, lứa tuổi được làm lễ cấp sắc của người Dao Tiền ở Khâu Phảng (Bắc Cạn) là từ 12 tuổi trở lên. Gia đình nào có điều kiện về kinh tế thì có thể tổ chức lễ cấp sắc sớm hơn. Thông thường lễ cấp sắc được tổ chức tại nhà của trưởng họ và tổ chức đồng thời cho ba người. Tương ứng với ba người thụ lễ là chín cây đèn. Lễ cấp sắc có nhiều bậc khác nhau, bậc thứ nhất họ được cấp ba cây đèn tương ứng với 30 kị mã. Số kị mã là biểu tượng cho sức mạnh của người đàn ông (phụ thuộc số lễ vật gia chủ có). Bậc ba đèn là nghi thức thông thường và phổ biến nhất. Bậc thứ hai là bậc bảy đèn tương ứng với 72 kị mã. Bậc cuối là mười hai đèn tương ứng với hơn 100 kị mã. Thời gian tiến hành lễ diễn ra trong hai đêm, một ngày với nghi lễ chính là Trình diện và Thụ đèn.
Điều quan trọng nhất trong buổi lễ cấp sắc là cấp pháp danh cho người thụ lễ
Kiêm gia dáng chiềm gian ka chuất
Giêm chuất ka chầy giêm chấy
Thim rong ro nhiết ca dàng dân
Chiếu miềm cuối tấy chuất chìn châu.
Dịch:
Đêm nay đưa ca dao cho người hát
Cấp sắc cho người mới lên thầy
Khi cấp sắc này xong được nâng cấp
Chủ hộ mỗi nhà giầu có thêm.[1]
Lúc lên đèn xong thầy mo chia gạo cúng làm hai phần bằng chiếc gậy chuyên đi làm tào[2] của mình và đặt gạo trên một sải vải trắng, thầy sẽ lấy phần bên trái, người thụ lễ được phần bên phải bằng cách thầy ném gạo vào vạt áo người thụ lễ. Đồng thời người thụ lễ sẽ lấy vạt áo ra hứng gạo từ thầy. Hành động bắt buộc này được thần linh và mọi người trong gia đình gia chủ chứng giám với thái độ trân trọng và không khí đặc biệt linh thiêng. Sau phần nghi lễ đặc trưng này, người thụ lễ đã có vị thế mới với cộng đồng và với tổ tiên.
Sau khi các thầy cúng dâng rượu và lễ vật để tạ ơn tổ tiên, thần linh là kết thúc buổi lễ.Từ đây người thụ lễ được công nhận là người trưởng thành, được trao đèn. Quyền lợi, vị thế và danh dự về cả thể xác và tâm linh được thừa nhận. Người Dao Tiền quan niệm rằng những người đàn ông được trải qua lễ cấp sắc mới thực sự có tâm, có đức để phân biệt đúng sai, phải trái và được công nhận là con cháu của Bàn Vương[3] .
2. Lễ Cấp sắc là trình báo với tổ tiên một việc hệ trọng của dòng họ
Trong lễ Trình diện, gia chủ phải có ba con lợn, một con gà, rượu, gạo, tiền và mâm lễ cúng là những đồ lễ bắt buộc để làm lễ cúng tổ tiên. Ngoài ra gia chủ còn phải chuẩn bị mâm bánh gói bằng bột gạo và chiếc lò hương. Thầy tào đánh trống mời tổ tiên về dự buổi lễ, sau đó thầy làm lễ khai đèn, nhằm báo cho tổ tiên biết lý do của buổi lễ.
Một trong ba người thụ lễ sẽ làm trưởng, quan sát và học tập một số điệu múa của thầy. Múa theo điệu làm tào, theo câu thơ ma. Ca nhụn mặc áo phụ nữ bên trong và mặc áo tào[4] bên ngoài. Lúc lên đèn, thầy mo sẽ đặt tên âm cho người thụ lễ để sau này khi mất đi họ được về với tổ tiên, con cháu sẽ lấy tên âm đó thờ cúng.Tên âm này đặt theo họ, thường chọn tên theo năm sinh của gia chủ.
Ngày hôm sau trong buổi lễ sẽ có ba người con trai và ba người con gái hát tía[5](còn gọi là hát páo dùng), họ hát khoảng từ ba đến bốn giờ. Hát tía đựoc bắt đầu từ đêm, trong lúc họ hát thì xài tía cúng, cũng có lúc nam hát nữ nghỉ và ngược lại[6]. Điều kiêng kị là những người hát phải chưa lập gia đình, nếu có vợ, có chồng rồi mà vẫn đi hát là có ma mất đi sự linh thiêng của buổi lễ. Đây là lời Hát cúng cho ma
Chiêm chiu ca chầy chúa diết lình
Cuối tìu lành dỉa diết đồng suồng
Đồng suồng tiu mài chiêm táo mùa
Chiêm táo mùa khoa goi tái chông
Chiêm chiu ca chầy chúa diết lình
Đuốt tìu lành dỉa diết đồng tòng
Đồng píu mài tòng diết nhyiêù shái
Diết nhiều song shái mặn nhiều xong
Chiêm chiu cà chày chúa diết lình
Diết tìu lành dỉa diết đồng thông
Đồng thống piu mài chiêm táo mùn
Thống nhụt chiêm táo phá phiêm hồng
Cha chiếu chiêm chiu vẩy nhụt lìu
Cho lò muồn quyên shánh pán goi
Cho lò muốn thin on phán día
Chiếu miền mạn phúi chán thìu shài
Cha chiếu chiêm thiu vầy nhụn lìu
Cho lò chuống miền chong mà khiểu
Khiếp shấy chong mà khiếu puôn puôn.
Phùng chiền khiếu.
Pè mài phái phúng shuất thài muôn.
Siểu nhum hung lầu tố lò tẩy
Tố lò tảy luồng chiên ví tài
Dịch nghĩa :
Gia đình làm lễ cấp sắc
Cho người được thụ lễ được tốt đẹp.
Từ xa xưa đến đời mình
Không được suy thoái
Có việc làm cho gia đình ấm tổ tiên
Chọn ngày xưa, đời tiếp đời bản sắc
Làm cho gia đình con cái phúc thọ thêm
Chọn ngày tốt đẹp thêm mới phồn vinh
Để làm lễ cho con cái chúng mình
Mình đi mời hai thầy cúng lễ
Mình làm lễ thịt lợn gà giỗ tổ
Làm lễ hai đêm một ngày xong
Để con cái mình ra ngoài sống khoẻ mạnh
Làm cho con cái đời kiếp đời không được bỏ
Bàn Vương (của mình) người hộ nhau
Làm những công việc này thêm bản sắc
(Cùng họ hộ nhau làm bàn thờ cúng ma đời xứ, ông cha, bố mẹ…)
Làm xong cuối ngày
Ông thầy bảo nhau ăn bữa cơm và chia đồ cúng về tổ[7]
3. Những kiêng kỵ và vai trò của phụ nữ
Người Dao thường dùng câu thành ngữ “Tre là tre, gỗ là gỗ” để nói về sự kiêng kị và phục trang bắt buộc khi thực hành Lễ cấp sắc. Trước khi hành lễ người được hành lễ phải kiêng một tuần, không được gần gũi, giao tiếp, hoặc ngồi cùng ghế với phụ nữ, không nói tục,chửi bậy.
Tại lễ cấp sắc, người được cấp sắc phải ăn mặc chỉnh tề và ngồi trước bàn thờ, trang phục mà người thụ lễ mặc phải là bộ quần áo tự tay người phụ nữ Dao Tiền dệt và thêu với gam màu chủ đạo là máu xanh, đỏ, tím, vàng biểu thị âm dương hài hòa. Vợ của người thụ lễ dành từ sáu tháng đến một năm để làm bộ lễ phục cho chồng. Bộ lễ phục có tên là Tôm lùi và có màu chàm. Họ quan niệm rằng vợ thêu được áo quần cho chồng thụ lễ thì sau này chết đi Bàn vương mới công nhận (người vợ) là con cháu.
Diềm shuất ca chầy
Thin dòng lò nhiết ca đằng dán
Chiếu miền cuối tẩy shuất tin châu
Dịch nghĩa:
Rủ nhau ra chỗ cùng ca hát
Trăng khuất đêm nay hát mừng tiên
Hai ngày hai đêm cùng cũng giỗ
Lễ song cấp sắc sẽ thành thân[8].
Lễ cấp sắc của người Dao Tiền có những điểm tương đồng với Lễ cấp sắc của người Sán Chỉ[9]. Tuy nhiên, trong Lễ cấp sắc của người Sán Chỉ người thụ lễ mặc đơn thuần là những bộ quần áo dài bình thường và khi lên đèn mặc một chiếc áo trùng có màu vàng. Ngoài ra người Sán Chỉ còn có cô dâu giả nhảy múa xung quanh lễ cấp sắc.[10]
Điều đặc biệt trong buổi lễ, thầy tào cũng phải mặc một bộ quần áo nữ và đeo vòng cổ cùng chiếc mũ làm bằng vải màu đen, đó là chiếc mũ bằng vải truyền từ đời này sang đời khác.
4. Quan niệm về ma khô trong và những người đàn ông không làm được Lễ cấp sắc
Một số dân tộc ít người quan niệm: người chết đi có linh hồn gọi là ma khô. Với người Mông ở Hà Giang nếu người chết chưa được tổ chức nghi lễ làm ma khô (thả hồn người chết) thì linh hồn sẽ không hòa nhập được với tổ tiên, người chết không thể hóa kiếp, hồn người chết sẽ quanh quẩn nơi ở của con cháu, có thể phù hộ nhưng cũng có thể quấy nhiễu họ…. Nghĩa là mọi tội lỗi của người chết lúc sống chưa được tha thứ[11]? Với người Dao Tiền nơi đây, nếu người đàn ông không được làm được lễ cấp sắc (chủ yếu là do không có khả năng để chuẩn bị đồ lễ) thì cứ phải ở rể bên nhà vợ đến hết đời và linh hồn khi chết sẽ là ma khô lang thang xung quanh cuộc đời những người sống, không được cộng đồng và tổ tiên chấp nhận. Đây là nỗi ám ảnh và cũng là nỗi đau lớn nhất của người đàn ông Dao Tiền nếu như suốt đời nghèo khổ của mình không có đủ khả năng kinh tế để làm Lễ cấp sắc
Lễ cấp sắc là một phần đời sống tâm linh, thể hiện những khát khao, mơ ước của người Dao tiền về một thế giới tươi đẹp, về một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Mỗi người đàn ông dân tộc Dao Tiền được cấp sắc đều coi đó là một niềm vinh dự lớn đối với bản thân, gia đình. Từ đó, khích lệ họ có thêm động lực xây dựng cuộc sống gia đình ấm no, hạnh phúc. Bản thân người được cấp sắc luôn nêu cao tinh thần gương mẫu trong công việc, là tấm gương tốt cho lớp trẻ noi theo. Đó là giá trị nhân văn to lớn mà Lễ cấp sắc đem đến cho đời sống tâm hồn người Dao Tiền. Hơn nữa, tính giáo dục được thể hiện ở các điều giáo huấn khắc ghi trong sắc cấp, nó hướng con người tới những điều thiện. Tuy nhiên, quan niệm truyền kiếp và niềm tin sắt đá về sự bất định của linh hồn sau khi chết nếu như chưa có “pháp danh” đã và đang là những trói buộc tâm linh ghê gớm đối một bộ phận cư dân nơi thâm sơn vùng Đông Bắc.
Có cách nào mang ánh sáng văn hóa đến để vừa thay đổi nhận thức vừa bảo lưu được nét độc đáo của nghi lễ cấp sắc nơi những bản làng hầu như chưa “ngỏ cửa” ở ngưỡng của thế kỉ XXI này?
[1] Trích Bài cúng của thầy mo Đặng Văn Sư – thôn Khâu Phảng, Bộc Bố, Pắc Nặm, Bắc Cạn
[2] Đi cúng cho Lễ cấp sắc.
[3] Bàn Vương là thủy tổ của người Dao – một nhân vật trong truyền thuyết, có vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của người Dao. Hàng năm người Dao Tiền vẫn làm lễ cúng Bàn Vương
[4] Áo dùng cho thầy cúng
[5] Một sinh hoạt văn nghệ có ý nghĩa tâm linh bắt buộc trong Lễ cấp sắc
[6] Chúng tôi có tiếp xúc với Bà Đặng Thị Pham, 55 tuổi bà được mời đi hát từ khi 20 tuổi, những người hát thuê sẽ được gia chủ trả một ít thịt lợn.
[7] Trích Bài cúng của thầy mo Đặng Văn Sư – thôn Khâu Phảng, Bộc Bố, Pắc Nặm, Bắc Cạn
[8] Trích Bài cúng của thầy mo Đặng Văn Sư – thôn Khâu Phảng, Bộc Bố, Pắc Nặm, Bắc Cạn
[9] Người Sán Chỉ được nhắc tới trong bài viết cư trú tại thôn Nà Nẩy (cạnh thôn Khâu Phảng), xã Bộc Bố, Pắc Nặm, Bắc Cạn.
[10] Chị Đặng Thị Chinh – cô dâu giả trong lễ của người Sán Chỉ cho biết “Tôi là cháu họ của người đựơc thụ lễ hôm nay, tôi 16 tuổi và tôi sẽ nhảy múa cùng thầy mo, tôi phải tự chuẩn bị quần áo và đồ dùng mình cần”. Những dữ liệu này được chúng tôi thu thập khi khảo sát tại thôn Khâu Phảng và thôn Nà Lẩy, xã Bộc Bố, huyện Pắc Nặm, Bắc Cạn vào tháng 02.2010
[11] Xem thêm http://www.baomoi.com/Di-cung-ma-kho-o-Pho-Bang/54/6149744.ep
và http://news.zing.vn/xa-hoi/kham-pha-tap-tuc-ma-kho-cua-o-ha-giang/a76810.html
(Theo: Thông báo văn hóa 2011 – 2012, Nhiều tác giả, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2013).
