Hiện tượng Tam phủ, Tứ phủ hoá tín ngưỡng thờ mẫu thần (trường hợp Quốc Mẫu Tây Thiên)

Lê Thị Phượng*

Trong hệ thống tôn giáo tín ngưỡng của Việt Nam, tín ngưỡng thờ nữ thần, thờ mẫu là tín ngưỡng bản địa được sinh ra do tâm thức tôn thờ người phụ nữ của cư dân nông nghiệp lúa nước và được phổ biến rộng rãi trên khắp cả nước.

Qua thời gian, từ thờ nữ thần, mẫu thần, hình thức tín ngưỡng dân gian này đã có bước phát triển lên tín ngưỡng thờ mẫu Tan phủ – Tứ phủ mà các tên gọi: đạo Mẫu, đạo Mẫu Tam phủ – Tứ phủ hay tín ngưỡng Mẫu Tứ phủ, đạo Mẫu Tứ phủ cũng đều có cùng một ý nghĩa. Trong điện mẫu Tam phủ – Tứ phủ, hơn 50 vị thần được chia theo các hàng, các phủ khác nhau, trong đó, Thánh Mẫu Liễu Hạnh mặc dù xuất hiện vào thế kỷ XVI, khá muộn so với các vị thánh khác nhưng lại nhanh chóng trở thành vị thần chủ cao hất. Phủ trong tín ngưỡng thờ mẫu tương ứng với mỗi miền: Thiên phủ – miền trời, Địa phủ – miền đất, Thoải phủ – miền sông nước và Nhạc phủ – miền rừng núi. Tam phủ bao gồm Thiên phủ, Địa phủ, Thoải phủ. Tứ phủ bao gồm ba phủ của Tam phủ và thêm vào phủ Thượng Ngàn (Nhạc phủ). Tương ứng với mỗi phủ là một màu riêng biệt: Thiên phủ ứng với màu đỏ, Địa phủ ứng với màu vàng, Thoải phủ ứng với màu trắng, Nhạc phủ ứng với màu xanh. Cai quản bốn miền của vũ trụ là bốn vị Thánh Mẫu: Mẫu Thượng thiên cai quản Thiên phủ, Mẫu Địa cai quản Đại phủ, Mẫu Thoải cai quản Thoải phủ và Mẫu Thượng Ngàn cai quản Nhạc phủ. Giúp việc cho bốn vị Thánh mẫu là các Quan, các Chầu, ông Hoàng, các Cô, các Cậu cũng chia thành bốn phủ các Thánh mẫu.

So với tín ngưỡng thờ mẫu Tứ phủ, tín ngưỡng thờ mẫu thần không có một hệ thống hàng, các lớp thánh mẫu, cũng không được tổ chức theo kiểu tam tòa, lục viện mà được bài trí theo tín ngưỡng thờ bách thần của người Việt. Tuy nhiên, hiện nay ở các đền thờ mẫu thần đang diễn ra một cách khá phổ biến hiện tượng Tam phủ – Tứ phủ hóa. Đó là hiện tượng các vị thánh của Mẫu Tứ phủ ngày càng xâm nhập mạnh mẽ vào điện thần các di tích thờ nữ thần, mẫu thần khác, đồng thời, các nghi lễ của Mẫu Tứ phủ cũng xuất hiện ngày càng nhiều bên cạnh các nghi lễ thờ thần.

Quốc mẫu Tây Thiên (QMTT) Lăng Thị Tiêu là vị thần chủ của núi Tam Đảo. Tương truyền, bà sinh ra ở thôn Đông Lộ, xã Đại Đình, huyện Tam Đảo trong một gia đình bộ chủ. Khi trưởng thành bà trở thành chính Hoàng phi của vua Hùng Chiêu Vương và có công giúp vua đánh đuổi giặc ngoại xâm. Đời Lê, do có công âm phù nên thần được sắc phong Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu tối linh Đại vương. Những nơi thần đi qua hoặc có sự tích đều được nhân dân lập đền thờ mà đền Mẫu Sinh, đền Mẫu hóa, đền Thỏng và đền Thượng Tây Thiên là những địa điểm chính. Trải qua những biến thiên, thăng trầm của lịch sử, người dân nơi đây vẫn duy trì một hệ thống những lễ nghi và lễ hội tưởng nhớ công đức Quốc Mẫu. Trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi cả nước nói chung cũng như tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng, tục thờ Quốc Mẫu Tây Thiên đang có những thay đổi theo hướng Tam phủ – Tứ phủ hóa cho phù hợp với nhu cầu tín ngưỡng của người đi lễ. Hiện tượng Tam phủ – Tứ phủ hóa không chỉ diễn ra ở mặt di tích, điện thần mà còn thể hiện trong việc thực hành các nghi lễ thờ mẫu.

1. Tam phủ, Tứ phủ hóa điện thần Quốc Mẫu Tây Thiên

Điện thần là bộ phận quan trọng nhất của di tích, cho biết di tích đó thuộc loại di tích nào. Điện thần thường được đặt trong các kiến trúc tôn giáo – tín ngưỡng có quy mô khác nhau. Mỗi điện thần thường đặt nhiều ban thờ, tên gọi và vị trí của ban thờ làm nên điện thần của các đền đài(1).

Các đền thờ QMTT ở Vĩnh Phúc nói chung và khu vực xã Đại Đình nói riêng, trước kia đều có cách bài trí điện thần khá giống nhau. Qua các tư liệu và khảo sát thực tế cho thấy, các ngôi đền thờ QMTT đều có hậu cung được nâng sàn lên làm khám thờ. Khám thờ đó chính là điện thần của di tích, nơi đặt ban thờ Quốc Mẫu. Do điều kiện kinh tế – xã hội của địa phương có hạn nên di tích cũng như điện thần QMTT khá đơn giản. Trong điện thần chỉ có ban thờ đặt ngai và bài vị Quốc Mẫu, phần lớn không có tượng thờ.

Trải qua thời gian dài cùng những năm tháng chiến tranh, bom đạn, những ngôi đền thờ Quốc mẫu cũng nằm trong tình trạng chung của hệ thống đền, đình, chùa của cả nước, bị hư hỏng hay bị tàn phá nặng nề. Ngày nay, trong điều kiện hòa bình, kinh tế – xã hội đạt những thành tựu đáng kể thì việc khôi phục các di tích là việc làm có ý nghĩa thiết thực góp phần bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống. Thực hiện công cuộc đổi mới theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế của cả nước nói chung có sự phát triển vượt bậc. Cũng như nhiều địa phương khác trên cả nước, kinh tế Vĩnh Phúc cũng đạt được những thành tựu đáng kể, đặc biệt là từ khi tỉnh được tái thành lập (năm 1997), kinh tế của tỉnh luôn giữ mức tăng trưởng cao. Kinh tế tăng trưởng là điều kiện thuận lợi để tỉnh Vĩnh Phúc cùng nhiều địa phương khác trong cả nước quan tâm và giải quyết các vấn đề văn hóa – xã hội. Dễ nhận thấy là từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay, nhiều di tích lịch sử – văn hóa được khôi phục, mở rộng, có những di tích bị sử dụng sai mục đích thì lúc này cũng được nhìn nhận và trả lại đúng chức năng.

Theo số liệu gần đây, toàn tỉnh Vĩnh Phúc có 758 cơ sở thờ tự1 của các tín ngưỡng dân gian bao gồm đình, đền, miếu, am, nhà thờ họ, điếm và quán. Trong đó, chỉ tính riêng số lượng di tích thờ QMTT đã là 48 di tích, chiếm 6,3%. Phần lớn các di tích mới được khôi phục từ những năm cuối của thế kỷ XX, đặc biệt là từ những năm đầu thế kỷ XXI trở lại đây. Trong quá trình khôi phục, tất yếu sẽ có những thay đổi về kiến trúc, bài trí cho phù hợp với quan điểm, nhu cầu và mang dấu ấn của con người thời hiện đại mà hiện tượng Tam phủ – Tứ phủ hóa điện thờ QMTT là đặc điểm nổi bật trong tất cả các di tích, từ dưới chân núi lên đền Thượng. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua việc bài trí các điện thần.

Đền Mẫu Sinh cho đến trước năm 1945 vẫn mang kiến trúc thời Nguyễn với hậu cung được nâng sàn lên làm khám thờ. Theo trí nhớ của các cụ cao tuổi trong làng, trên khám chỉ đặt ngai thờ Quốc mẫu. Qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo trong những năm gần đây, bố cụ di tích cũng như điện thần Quốc mẫu có nhiều thay đổi. Hệ thống tượng trong đền được bổ sung khá nhiều và cùng với đó là sự thay đổi trong cách bài trí. Hậu cung đền được xây thành bệ thờ thay cho khám thờ trước đây, được bổ sung các vị thánh của mẫu Tứ Phủ và được hệ thống hóa một cách khá hoàn chỉnh theo các hàng, các lớp. ở vị trí cao nhất là tượng Quốc mẫu Lăng Thị Tiêu, tiếp đó là tam tòa Thánh Mẫu: Mẫu Thượng Thiên (áo đỏ, ở giữa), Mẫu Thượng Ngàn (áo xanh, bên phải) và Mẫu Thoải (áo trắng, bên trái); ngũ vị vương quan (từ quan đệ nhất đến quan đệ ngũ), Tam hoàng. ở bên dưới đặt ban thờ quan Ngũ hổ và phía trên điện là ông Lốt, tầng không có trang trí nhiều nón dùm.

Được biết, những pho tượng này, kể cả tượng Quốc Mẫu chỉ được nhân dân các nơi cung tiến vào khoảng cuối những năm 1990 trở lại đây, đặc biệt là từ năm 2006, khi quá trình phục dựng ngôi đền được hoàn thiện.

Cũng giống như đền Mẫu Sinh, đền Mẫu Hóa ở xóm Xím, xã Đại Đình vốn cũng chỉ thờ QMTT, là nơi mẫu hóa về trời. Trong hậu cung của đền còn long ngai, bài vị với hàng chữ: “Tam Đảo sơn trụ Quốc mẫu Đại vương. Điện thần đền Mẫu Hóa xưa kia cũng rất đơn giản, một gian hậu cung được nâng cao làm khám thờ, trong có long ngai, bài vị của mẫu và ba pho tượng tam tòa, bên dưới đặt tượng Ngũ Hổ. Như vậy, so với đền Mẫu Sinh thì điện thần đền Mẫu Hóa được bố trí theo mô hình Tam phủ – Tứ phủ khá sớm, tương truyền là cách nay hàng trăm năm. Lần tu sửa gần đây nhất năm 2008, ngôi đền được mở rộng phần tiền tế, riêng hậu cung vẫn được xây trên nền cũ và có một gian được nâng cao làm khám thờ, trên đặt long ngai, bài vị. Trước hậu cung là ban thờ đặt tượng tam tòa Thánh Mẫu. ở gian đại bái được lập thêm ban thờ Ngũ vị Tôn ông ở giữa, ban thờ Tam Hoàng ở bên trái và ban Mẫu Thượng Ngàn bên phải (từ ngoài nhìn vào). Như vậy, về cơ bản, điện thần đền Mẫu Hóa và đền Mẫu Sinh có cách bài trí khá giống nhau.

Trong hệ thống các di tích ở Tây Thiên, có thể nói, ngôi đền Thỏng là nơi còn lưu giữ được một vài nét kiến trúc cổ xưa. Với một diện tích khoảng 40m2, điện thần của đền được bài trí khá nhiều ban thờ. Có thể chia điện thần của đền Thỏng làm hai phần: thượng ban và hạ ban. Thượng ban có tượng Quốc Mẫu được đặt trong tủ kính, hạ ban có ban thờ Ngũ Hổ, hai bên là ban thờ Cô, Cậu. Gian tiền tế có ban thờ công đồng, bên trái là ban thờ mẫu Thoải, bên phải là ban thờ mẫu Thượng Ngàn, phía trên là ông Lốt.

Đền Thượng Tây Thiên là nơi thờ tự chính QMTT. Theo lời kể lại thì ngôi đền này xưa kia chỉ như một miếu thờ nhỏ, trong có đặt long ngai, bên ngoài thờ Ngũ Hổ. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cô Ba Tí, một nhà buôn ở miền xuôi thân Pháp sống cùng thời với nhà thơ Nguyễn Khuyến (1835 – 1909), từng bị Nguyễn Khuyến làm thơ châm chích, đã cung tiến hai pho tượng lên đền thượng để thờ mẫu. Dọc đường chở tượng theo bờ sông Đáy, do dân chúng cung tiến quá nhiều, số thu tăng gấp nhiều lần so với kinh phí tạc tượng và trở thành mối lợi buôn bán nên khi rước lên đền Thượng, tượng không ứng nghiệm, phải để ở gian tiền tế. Năm 1937, ông Hà Trọng Tuy xây dựng lại đền và mời ông Trần Văn Thìn (ông Phó Thìn) ở làng Đại Lữ, xã Đồng ích, huyện Lập Thạch tạc tượng mẫu cùng hai bưc phù điêu Bát tiên quá hải. Hai pho tượng của cô Ba Tí lúc này mới được đem đặt vào cạnh hai bên tượng Quốc mẫu và gọi là cô Đệ nhất, cô Đệ nhị. Điện thần đền Thượng khi đó được bài trí1:

Cung mẫu đện tam          Quốc Mẫu Tây Thiên      Cung mẫu đệ nhị

                                           Bát hương công đồng

Theo như cách bài trí này thì QMTT là vị thần chủ, tương đương với vị trí của Mẫu đệ nhất Thượng Thiên.

Qua việc khảo sát cách bài trí điện thần QMTT, có thể rút ra một số nhận xét:

Thứ nhất, hiện tượng Tam phủ – tứ phủ hóa điện thần QMTT đã có manh nha từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX với sự kiện cô Ba Tí cung tiến hai pho tượng lên đền Thượng Tây Thiên. Việc cô Ba Tí cung tiến hai pho tượng lên đền Thượng chứng tỏ rằng, vào thời điểm đó, tín ngưỡng thờ mẫu Tam phủ – Tứ phủ rất phát triển, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới làm ăn buôn bán. Đây cũng là thời diểm các điểm thờ tự của mẫu Tam phủ – Tứ phủ được mở mang ở nhiều địa phương trong cả nước.

Quá trình Tam Phủ – tứ phủ hóa điện thần các di tích thờ QMTT diễn ra sớm nhất trong khoảng 100 năm (ở đền Thượng, đền Mẫu Hóa) và muộn nhất là khoảng 20 năm (ở đền Mẫu Sinh) trở lại đây. Từ sau Đổi mới, do chính sách tự do tôn giáo, tín ngưỡng của Đàng và Nhà nước, khách thập phương cung tiến về Tam Đảo – Tây Thiên ngày càng rầm rộ, khiến cho diện mạo của tín ngưỡng thờ mẫu Tam phủ – Tứ phủ ngày càng hoàn thiện tại các điểm thờ cúng QMTT.

Thứ hai, mức độ Tam phủ – Tứ phủ hóa điện thần ở các di tích thờ QMTT là không giống nhau. Có nơi, linh tượng các vị thần của tín ngưỡng Mẫu Tứ phủ được sắp xếp theo một hệ thống hoàn chỉnh, từ tam tòa Thánh mẫu đến hàng các quan, ông Hoàng, Cô, Cậu, Ngũ Hổ, ông Lốt như ở đền Mẫu Sinh, Mẫu Hóa. Có nơi chỉ có một số vị thánh của mẫu Tam phủ – tứ phủ được phối thờ trong điện thần Quốc mẫu như ở đền Thông. Điều này hoàn toàn phụ thuốc của việc công đức của khách thập phương.

Thứ ba, hiện tượng Tam phủ – Tứ phủ hóa ở các di tích thờ QMTT không chỉ thể hiện qua việc bài trí các điện thần mà nó còn thể hiện ở việc: trong hệ thống các di tích thờ QMTT có sự góp mặt của các di tích thờ một nhân vật nào đó của đạo Mẫu Tứ phủ. Trên hành trình từ đền Thỏng lên đền Thượng, bên cạnh các di tích thờ QMTT còn có đền Cậu bên suối Trường Sinh, đền Cô bên suối Giải Oan và đền Cô Chín ngay cạnh đền Thượng. Tương truyền, đền Cậu và đền Cô trước đây chỉ là một bãi đá. Những người đi rừng thường cắm hương lên tảng đá, dần dần người ta mới đặt bát hương. Đền Cậu và đền Cô mới chỉ được dựng lên trong vòng hai chục năm trở lại đây theo cách thờ cúng của các ban thờ Cô, Cậu của tín ngưỡng Tam phủ – Tứ phủ, khi khách lên đền Thượng vào những nơi này làm lễ ngày càng đông. Tương tự, đền cô Chín cũng chỉ mới được dựng lên kể từ khi vụ Vũ Văn Kỳ – thủ nhang đền Thượng lên đây trông coi đền. Do sát căn cô Chín nên cụ đã xin chân nhang từ đền Sòng (Thanh Hóa) về đây thờ cúng. Ngoài ngôi phủ điện thờ Quốc mẫu, trong khuôn viên các di tích cũng mới được xây dựng thêm nhiều hạng mục của tín ngưỡng Tam phủ – Tứ phủ. Chẳng hạn, trong khuôn viên đền Mẫu Hóa hiện nay mới được bổ sung thêm phủ và cung Chúa Thượng Ngàn, phủ Trần Triều. Không chỉ ở các điểm thờ tự chính mà tại hầu hết các di tích thờ QMTT chúng tôi có dịp đi qua, trong khuôn viên di tích thường có ban thờ cô Chín Cửu Thiên hoặc phủ Chúa Thượng Ngàn (như ở đền Chân Suối và đền Đại Lữ). Tất cả đều mới được các con nhang đệ tử cung tiến trong những năm gần đây.

Thứ tư, tùy từng nơi, tùy quan niệm của người dân mà có nơi Quốc Mẫu là thần chủ và dưới bà là tam tòa Thánh Mẫu cùng hệ thống thần thánh của điện Mẫu Tam phủ – Tứ phủ như ở các đền Mẫu Sinh, Mẫu Hóa; cũng có nơi, người dân lại đồng nhất Quốc Mẫu với Mẫu Thượng thiên như ở đền Thỏng. Tuy nhiên, dù ở vị trí nào, QMTT vẫn là thần chủ của đền. Những tấm hoành phi trong di tích như: “Tây Thiên Quốc Mẫu (ở tất cả các di tích), “Mộc bản thủy nguyên – cây có gốc, nước có nguồn, “Thánh Mẫu linh từ – đền thiêng Thánh Mẫu (đền Mẫu Sinh), “Đức Quốc Mẫu (đền Mẫu Hóa), “Quốc Mẫu linh từ – đền thiêng Quốc Mẫu (đền Thượng Tây Thiên) cùng các sắc phong chứng tỏ vị trí thần chủ của bà tại các di tích.

2. Tam phủ, tứ phủ hóa sinh hoạt nghi lễ thờ Quốc Mẫu Tây Thiên

Việc thờ phụng QMTT trước kia chủ yếu theo các nghi lễ thờ cúng Thành hoàng ở mỗi làng hoặc một số làng theo lịch sử của nhà đền. Ngoài các ngày sóc (mùng 1) và ngày vọng (rằm) do thủ nhang đảm nhận thì chủ yếu chỉ là tiệc lệ sự thần. ở mỗi di tích hoặc một cụm di tích, tiệc lệ sự thần lại diễn ra vào những thời điểm khác nhau.

Làng Sơn Đình xưa kia được giao cho việc làm tiệc tại đền Thượng Tây Thiên và đền Thỏng. Một năm có bốn ngày lễ chính (các ngày lễ tính theo âm lịch): ngày 15 tháng 2 – lễ hội chính cả năm, tương truyền là ngày mẫu hóa; ngày 28 tháng 2; ngày mùng 1 tháng 3; ngày 14 tháng 5. Trong những ngày sóc, vọng bình thường thì chỉ làm lễ ở đền Thông, chỉ vào những ngày lễ chính mới lên đền Thượng làm lễ.

Đền Mẫu Sinh xưa kia không có việc thánh vào ngày 15 tháng 2 mà chỉ có tiệc vào ngày 10 tháng 5 – ngày mẫu sinh, ngày 15 tháng 4 – xuống đồng mạ, ngày 15 tháng 7 – xá tội vong nhân, ngày 15 tháng 10 – đại tiệc (tết cơm mới), ngày 15 tháng 12 – đóng cửa đền. Về cơ bản, các ngày tiệc thánh ở đền Mẫu Hóa tương tự như đền Mẫu Sinh, chỉ khác là: tiệc thánh ở đền Mẫu Sinh vào ngày 10 tháng 5 thì ở đề Mẫu Hóa lại vào ngày 15 tháng 2. Đền Mẫu Sinh và đền Mẫu Hóa có mối quan hệ khá gắn bó trong các ngày tiệc lệ: ngày tiệc mẫu sinh và ngày đại tiệc, bên đền Mẫu Sinh sang đền Mẫu Hóa rước mẫu với ý nghĩa gọi hồn mẫu về dự tiệc; ngày tiệc mẫu hóa, bên đền Mẫu Hóa đem cờ, lọng sang bên Mẫu Sinh rước mẫu về từ ngày 14, ngày 15 – 2 lại rước trả. Những ngày lễ này chủ yếu là theo phong tục của người Sán Dìu, nhiều nghi lễ gắn với nông nghiệp như xuống đồng mạ, tết cơm mới.

Tại mỗi di tích, thủ từ là người đảm nhận việc đèn nhang, thờ cúng Quốc mẫu. Việc cắt cử thủ từ tại các đền được thực hiện bằng cách chọn những người đủ tiêu chuẩn: vợ chồng song toàn, gia đình hào thuận, nề nếp, sau đó thỉnh mẫu xin ba đài âm dương, mẫu chấm ai thì người đó được làm. Nếu làm không tốt thì người khác lên thay. ở đền Mẫu Hóa, từ năm 1967 đến nay đã có 8 cụ từ lần lượt trông coi đền: cụ Sĩ, cụ Tư Thao, cụ Ba Dịu, cụ Trưởng, cụ Tư, cụ Đức, cụ Lục, cụ Phúc. ở đền Thượng, cụ Bá Mai trông coi trong những năm 1938 – 1942, sau đó đến cụ Chánh hội Mai (người làng Tháp, xã Tam Quan) khoảng năm 1942 – 1945. Sau một thời gian dài, ngôi đền không có ai trông nom, đến năm 1963, cụ Kỳ phát hiện ra ngôi đền, từ đó cụ trông coi cho đến năm 1994. Hiện nay, con trai cụ là ông Vũ Văn Vượng đang đảm nhận công việc này.

Trong hệ thống các nghi lễ ở di tích thờ QMTT xưa kia, đặc biệt là tại đền Thượng, một nghi thức quan trọng, mang tính quốc lễ được các triều đình phong kiến rất quan tâm, đó là nghi lễ cầu đảo – cầu mưa. Việc cầu đảo ở núi Tam Đảo được bắt đầu từ triều Trần, song chưa được ghi chép cụ thể. Vào đời Lê Nhân Tông, hai năm Kỷ Tỵ (1449) và Canh Ngọ (1450) xảy ra hạn hán lớn. Triều đình phải cho người lên các núi Tản Viên, Tam Đảo để cầu đảo. Lần cầu đảo năm Kỷ Tỵ được ghi lại trong Đại Việt sử ký toàn thư: “Tháng ấy đại hạn, vua thân đến cung Cảnh Linh làm lễ cầu mưa. Sai Tham tri Bùi Cầm Hồ và Lang trung Lễ bộ Nguyễn Cảnh đến các núi Tản Viên, Tam Đảo để cầu, đều không ứng nghiệm, và Khâm định Việt sử thông giám cương mục cũng ghi lại với nội dung tương tự: “Đại hạn. Nhà vua đảo vũ ở cung Cảnh Linh; lại sai Bùi Cầm Hổ đến núi Tản Viên và núi Tam Đảo làm lễ cầu mưa, nhưng đều không ứng nghiệm. Như vậy, làm cầu đảo vào năm 1449 không thành. Lần cầu đảo năm 1450 không được ghi lại trong sử sách, nhưng tấm bia Ma nhai do viên quan Tư khấu Lê Khắc Phục vâng mệnh triều đình lên tế thần và sai khắc vào vách đá là minh chứng rõ nhất.

Các triều đại phong kiến sau này mặc dù không cử người lên Tam Đảo tế thần nhưng việc tế lễ đã giao cho làng Sơn Đình phụ trách, coi như thay mặt triều đình tế lễ. Điều đó được ghi lại trong tấm bia Tạo lập bi ký ở đình Ngò, lập năm Chính Hòa 22 (1701), ngày 1 tháng 11, đời vua Lê Hy Tông. Nội dung bia nói về việc thôn Lan Thông (tên cũ của làng Sơn Đình) là địa phương được giữ phận sự tạo lệ (phục dịch) ở hai ngôi chùa Tây Thiên và Phù Nghì trên núi Tam Đảo.

Sự thay đổi về nhu cầu tâm linh của con người dẫn đến sự thay đổi trong việc thực hành nghi lễ. Bên cạnh các nghi lễ thờ Quốc mẫu vẫn đang diễn ra như thường lệ thì các nghi lễ của đạo Mẫu Tứ phủ như lễ trình đồng mở phủ, lễ tôn nhang, lễ đốn Tam phủ, lễ tiến Tứ phủ ngày càng trở nên phổ biến và nhộn nhịp ở các di tích thờ QMTT.

Trong đạo Mẫu Tứ phủ hầu đồng hay hầu bóng được xem là nghi lễ chính. Đó là nghi lễ nhập hồn của các vị thánh Tứ phủ vào thân xác xác ông Đồng, bà Đồng, là sự tái hiện hình ảnh các vị Thánh nhằm phán truyền, chữa bệnh, ban phúc lộc cho các tín đồ đạo Mẫu. Hầu đồng là nghi lễ nhập hồn nhiều lần của nhiều vị thần linh, trong đó, mỗi lần một vị thần linh nhập hồn (Thánh giáng) rồi làm việc quan (với các nghi lễ nhảy múa và ban lộc, phán truyền) và xuất đồng (Thánh thăng)1. Tại các cơ sở thờ tự của đạo Mẫu tứ phủ của Việt Nam nói chung và ở Vĩnh Phúc nói riêng, hầu đồng thường được diễn ra vào nhiều dịp trong một năm: hầu xông đền (sau lễ giao thừa năm mới), hầu Thượng Nguyên (tháng Giêng), hầu Nhập hạ (tháng Tư), hầu Tán hạ (tháng Bảy), hầu Tất niên (tháng Chạp) và lễ hầu Hạp ấn (25 tháng chạp). ở một số đền còn có lễ hầu ngày tiệc của các vị Thánh như tiệc cô Bơ (12-6), tiệc Quan đệ tam (24-6), tiệc ông Hoàng Bảy (17-7), tiệc Trần Triều (20-8), tiệc Đức vua Cha (22-8), tiệc Chầu Bắc Lệ (tháng 9), tiệc ông Hoàng Mười (10-10)  ở Tam Đảo, hầu đồng mặc dù diễn ra khá tấp nập trong các đền thờ QMTT nhưng chủ yếu là lễ hầu vào các dịp đầu năm, cuối năm hoặc vào các ngày lễ tiết tứ thời, bát tiết, đây cũng là những thời điểm mà hoạt động hầu đồng diễn ra nhộn nhịp nhất. Do không phải là cơ sở thờ tự chính của đạo Mẫu Tứ phủ nên ngày tiệc của các vị Thánh Tứ phủ cũng như lễ hội tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ không được tổ chức tại đây song cũng có khá nhiều thanh đồng đến làm lễ và hầu đồng.

Các nghi lễ thường được thực hiện ở Tây Thiên là lễ đốn Tam phủ, lễ tiến Tứ phủ, lễ cầu an giải hạn, lễ cắt tiền duyên, lễ cầu tài cầu lộc, lễ trình đồng mở phủ. Các gia đình muốn làm lễ đốn Tam phủ hay lễ tiến Tứ phủ, nếu không trực tiếp hầu đồng được thì mời thanh đồng làm lễ (trên thực tế, đại đa số các gia đình muốn làm lễ đốn hay lễ dâng đều phải mời thanh đồng).

Lễ đốn Tam phủ là lễ trả nợ cho người đang mắc tội. Mã dùng cho lễ này thường là mã đơn, bao gồm:

+ Hình mã ba mẫu và hình mã ba động chúa: Thiên – Nhạc – Thoải có các màu tương ứng là đỏ, xanh, trắng.

+ Hình mã Ngũ vị Vương Quan, màu sắc tương ứng với mỗi phủ, riêng quan đệ ngũ Tuần Tranh có màu tím.

+ Hình mã Tam đầu cửu vĩ, tượng trưng cho Bát Hải Long Vương.

+ Ngựa tổng, voi tổng, thuyền tổng trả cho Thiên phủ.

+ Ngựa đàn nhỏ cho hàng Quan

+ Thuyền nhỏ trả cho hàng Quan của ba phủ, gọi là thuyền bát nhã, kích cỡ nhỏ hơn thuyền tổng, có các màu tương ứng với các phủ.

+ Nón mẫu, tiễn, vàng.

Ngoài ra, gia chủ phải chuẩn bị: 1 con gà, 1 con vịt hoặc ngan, 1 thủ lợn; hai bên tả hữu – các ban hàng Quan, hàng Cô, Cậu – đều phải có xôi, thịt; ban Ngũ Hổ phải có: thịt sống, trứng sống, gạo sống. Đồ lễ chung phải có: hoa quả, bánh kẹo, trầu cau, hương, tiền vàng, sớ điệp

Đồ mã dùng trong lễ cầu an, lễ cắt tiền duyên, lễ cầu tài lộc – tức là lễ tiến Tứ phủ – thường là mã kép. Đồ mã cũng giống như mã đơn nhưng về số lượng, mã kép gấp ít nhất là hai lần so với mã đơn.

Trên thực tế, số mã đốn Tam phủ hoặc tiến Tứ phủ còn có thể gấp nhiều lần số mã kể trên, tùy theo điều kiện của gia chủ, đặc biệt đối với các lễ cầu tài lộc do quan niệm mất một đồng, mẫu đền cho bốn đồng, đổi tiền giấy lấy tiền thật. Dưới đây là số đồ mã mà chúng tôi có dịp khảo sát trong một lễ đốn Tam phủ tại đền Mẫu Hóa vào ngày 17 – 6 – 2010 của một gia đình ở Bình Xuyên, theo lời phán của thầy mà lên làm lễ tại đây:

+ Sáu mẫu

+ Hai voi tổng, hai ngựa tổng

+ Năm ngựa đàn nhỏ, năm ngựa ngũ phương

+ Mười hàng quan

+ Bốn Tam đầu cửu vĩ

+ Tám Chầu

+ Tám động Chúa

+ Hai động Sơn trang, tám ông Hoàng

+ Hai thuyền tổng, sáu thuyền nhỏ.

Những thanh đồng đến hầu tại Tây Thiên, theo tìm hiểu của chúng tôi, chủ yếu là những người ở nơi khác đến, trong đó có nhiều thành đồng ở Hà Nội. Nhiều người do có căn, phải hầu Thánh nhưng cũng có người không có căn số cũng thường xuyên đi hầu tại các đền, phủ ở khắp nơi. Các vấn hầu đồng tại đền Mẫu Sinh, Mẫu Hóa, đền Thỏng hay đền Thượng Tây Thiên cũng đầy đủ các nghi lễ và giá đồng không kém gì tại các đền, phủ của Mẫu tứ phủ. Một vấn hầu thường bắt đầu bằng việc cúng thổ công, thỉnh Phật, thỉnh Mẫu, thỉnh các Thánh trong Tứ phủ, trình đồng, trình tứ trụ, cúng tam sinh, cúng chúng sinh rồi mới được hầu. Một vấn hầu đầy đủ phải có đủ cả 36 vị Thánh trong Tứ phủ, nhưng không phải tất cả các vị Thánh sẽ giáng đồng mà thường chỉ có khoảng hai chục giá. Riêng ở đền Thượng Tây Thiên, khi hầu giá Chúa Đệ Nhất Thượng Thiên, cung văn chuyển sang hát bài Văn Mẫu Tây Thiên1 ca ngợi công đức Quốc Mẫu:

Nước Việt Nam có ngàn Đông Lộ

Xứ Bắc Kỳ có dải Tây Thiên

…………

Cảnh Thánh Bà long chầu hổ phục

Suối Giải Oan giải khúc minh trân.

Trường Sinh có suối tảy màu

Tảy cho thiên hạ đâu đâu được nhờ.

………

Như vậy xét về góc độ nào đó, không chỉ thần điện và sinh hoạt lễ nghi đang được Tam phủ – Tứ phủ hóa mà ngay cả bản thân QMTT cũng đang được Tứ phủ hóa.

Việc Tam phủ – Tứ phủ hóa trong các sinh hoạt lễ nghi tại các di tích thờ QMTT trở nên nhộn nhịp trong khoảng hai chục năm trở lại đây nhưng nó cũng đã từng có một quá trình khá dài lâu. Việc cô Ba Tí cung tiến hai pho tượng lên đền Thượng Tây Thiên là sự kiện đầu tiên đánh dấu việc Tam phủ hóa tín ngưỡng thờ QMTT. Theo trí nhớ của người dân nơi đây, trước năm 1945 đã có một số người lên Tây Thiên hầu đồng. Nếu vậy thì việc hầu đồng có thể diễn ra trước sau thời điểm năm 1937, khi ngôi đền Thượng được xây dựng lại. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, nhiều ông Đồng, bà Đồng cũng lên đây hầu nhưng do chính sách chống mê tín dị đoan, nhiều người đã bị bắt. Chẳng hạn, vợ cụ từ Sĩ ở đền Mẫu Hóa là bà Đồng, những năm 1967 – 1968, bà thường ngồi đồng vụng vào ban đêm. Có lần, bà bị bắt, phải gánh bát hương lên huyện. Do cụ từ Sĩ là em ông Kim Ngọc, Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phúc lúc bấy giờ nên bà được thả về. Bản thân cụ Kỳ trông coi đền Thượng cũng là một ông Đồng, theo nghề từ năm 1966 – 1967 và cũng từng bị bắt khi đang hầu đồng.

Như vậy, cùng với sự thay đổi của di tích, điện thần thì các sinh hoạt lễ nghi tại các đền thờ QMTT ở khu vực Tây Thiên – Tam Đảo cũng có sự thay đổi. Bên cạnh các nghi lễ thờ Quốc Mẫu theo tín ngưỡng thờ Thành hoàng bản thổ thì các hoạt động lễ nghi Tam phủ – Tứ phủ cũng đang trở thành một bộ phận không thể thiếu tại đây.

3. Những nhân tố dẫn đến hiện tượng Tam phủ – Tứ phủ hóa điện thần và tín ngưỡng thờ Quốc Mẫu Tây Thiên

Trước hết, có thể nói chính sách cải cách kinh tế của Việt nam bắt đầu với đường lối của Đại hội Đảng lần thứ 6 (1986) là bước ngoặt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Thời kỳ Đổi mới thực sự bắt đầu từ năm 1989 liên tục đưa nền kinh tế nước ta đi lên. Kinh tế không ngừng phát triển, đời sống của người dân ngày càng được nâng cao, các nhu cầu văn hóa – xã hội cũng không ngừng được thay đổi. Kinh tế phát triển, một mặt đem đến sự giàu có cho con người, mặt khác nó cũng đem đến nhiều bất ổn khi nền kinh tế thị trường đòi hỏi con người luôn luôn phải suy nghĩ, tính toán về những cái được – mất.

Nhiều nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác từng cho rằng, khi khoa học phát triển, với sự trợ giúp của các thiết bị khoa học công nghệ thì nhận thức của con người về thế giới tự nhiện cũng như bản thân con người sẽ được nâng lên, những bí ẩn sẽ được giải đáp, khi đó, tôn giáo tín ngưỡng sẽ không còn cơ sở để tồn tại và sẽ tự triệt tiêu. Song, trên thực tế, điều này lại diễn ra hoàn toàn ngược lại, thể hiện ở chỗ: các tôn giáo mới xuất hiện ngày càng nhiều và số lượng các cơ sở thờ tự của các tôn giáo ngày càng tăng lên. ở nước ta, chỉ tính riêng Phật giáo, số cơ sở thờ tự đã tăng gấp 10 lần trong vòng 20 năm kể từ khi Đổi mới, số tín đồ cũng không ngừng tăng lên: đến năm 2003, cả nước có 9.038.064 phật tử. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển đã đóng vai trò quan trọng trong đời sống của con người nhưng nó lại mang đến những mối nguy hiểm mới không thể lường trước được. Tai nạn giao thông, tai nạn lao động và bệnh dịch mới có nguy cơ lây lan toàn cầu là nỗi sợ hãi của con người trong thời đại mới. Đứng trước nỗi sợ đó cùng những bất ổn về cuộc sống, nhiều người đã tìm đến chùa chiền, đền phủ, nhà thờ những mong tìm thấy một chỗ dựa về mặt tinh thần. Tâm lý có thờ có thiêng, có kiêng có lành vì thế luôn thường trực trong mỗi cá nhân.

Tôn giáo, như C.Mác đã nói, là thuốc phiện của nhân dân. ở bất kỳ thời đại nào, dù mông muội hay văn minh, còn người cũng vẫn cần đến một chỗ dựa tâm linh. Đối với Việt Nam, một dân tộc từ xưa có truyền thống coi trọng người phụ nữ, luôn đặt niềm tin vào mẫu – mẹ, đã hình thành cho mình một nguyên lý – nguyên lý mẹ và tín ngưỡng thờ mẫu, đặc biệt là Mẫu Tứ phủ. Nhiều người đã tìm đến những tôn giáo với giáo lý cao siêu như Phật giáo, Thiên Chúa giáo nhưng cũng không ít người tìm đến cửa điện, nơi thờ mẫu để được mẫu ban phúc, độ tài cũng như thỏa mãn những ước ao đời thường nhất. Nếu như Phật giáo, Thiên Chúa giáo chú trọng đến việc giáo dục con người và nhấn mạnh đến cuộc sống của con người sau khi chết thì đạo Mẫu Tứ phủ lại hướng đến đời sống của con người ở hiện tại. ở một khía cạnh nào đó, mẫu cũng đáp ứng những khao khát, ước vọng của con người về mặt vật chất cũng như về mặt tinh thần trong xã hội có nhiều biến động như hiện nay. Đó là những lý do khiến cho hình thức tôn giáo dân gian này ngày càng lan rộng và xâm nhập vào các phủ, điện của các tôn giáo, tín ngưỡng khác và thu hút ngày càng đông đảo những người thuộc mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi trong xã hội.

Dễ dàng nhận ra rằng tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ – Tứ phủ đang có sức lan tỏa mạnh mẽ, nhất là tại các cơ sở thờ nữ thần, mẫu thần. ở đền thờ Hai Bà Trưng (Mê Linh – Hà Nội), nữ anh hùng chống giặc Hán, bên cạnh gian chính điện thờ Hai Bà cùng các thuộc hạ thì gian bên trái đền là một thần điện của Mẫu Tứ phủ khá hoàn chỉnh. ở đền Cửa Sông (xã Xuân Canh, huyện Đông Anh – Hà Nội) có một ngôi đền thờ bà Trương Trinh Ngoạn, tương truyền là phi thứ tư của vua Hùng thứ 17 và là mẹ của Xạ Thần Quốc Lang, người có công giúp dân làng Xuân Canh, Xuân Trạch trừ tà khí. Đền nằm ở ngã ba sông Hồng và sông Đuống nên dân gian gọi là đền mẫu Cửa Sông, trong đó, mẫu Trương Trinh Ngoạn là thần chủ. Trước kia, ngôi đền nằm ở ngoài bãi sông Hồng nhưng do bãi bị lở, đền phải chuyển vào trong đê vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Từ đó, đền được bổ sung thêm nhiều vị thánh của Mẫu Tứ phủ do khách thập phương cung tiến. Trên điện thần, ở vị trí cao nhất vẫn là mẫu Trương Trinh Ngoạn, dưới là tam tòa Thánh Mẫu và các hàng Chầu, hàng Quan, ông Hoàng, hàng Cô, Cậu, Ngũ Hổ, ông Lốt; hai bên còn có phủ Chúa Thượng Ngàn và ban Trần Triều. Từ điện thờ mẫu thần đã chuyển sang một điện thần Tứ phủ hoàn chỉnh với đủ các hàng, các lớp.

Không chỉ xâm nhập vào các đền mẫu thần, các vị thánh trong Mẫu Tam phủ – tứ phủ còn đi vào cả tín ngưỡng thờ cá Ông của cư dân ven biển miền Trung và được địa phương hóa với hình thức: Cá Cha, Cá Mẹ, Cá Cô, Cá Cậu Sự linh hoạt, mềm dẻo và tính dân gian của hình thức tín ngưỡng này khiến cho nó dễ dàng thích ứng trong một môi trường mới, bởi với truyền thống tự thích ứng để tồn tại, tín ngưỡng này đã đi vào lòng người bởi tâm, không hẳn bởi pháp1.

Giống như các địa phương khác, hiện tượng Tam phủ – Tứ phủ hóa cũng đang diễn ra phổ biến ở vùng thờ QMTT. Hiện tượng này đã bắt đầu cách nay hàng trăm năm nhưng do những điều kiện kinh tế – xã hội mà trong một thời gian dài, nó chỉ diễn ra một cách âm ỉ. Chỉ khi chính sách mở cửa cùng chính sách tự do tôn giáo tín ngưỡng đi vào cuộc sống thì nó mới thực sự sôi động.

Ngoài các nhân tố chung như đã nêu trên, việc Tam phủ – Tứ phủ hóa điện thần và tín ngưỡng thờ QMTT còn bắt nguồn từ sự tương đồng về nguồn gốc, hành trạng của Quốc Mẫu Tây Thiên và Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong lần giáng sinh đầu tiên ở Phủ Nấp (phủ Quảng Cung) vào năm 1434. Thánh Mẫu Liễu Hạnh vốn là công chúa, con của Ngọc Hoàng, đầu thai làm con nhà họ Phạm ở thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, huyện ý Yên, Nam Định, có tên là Tiên Nga. Sau này, khi cha mẹ mất, nàng Tiên Nga đã không lấy chồng mà dành nhiều thời gian, công sức và tiền của để làm việc công đức, làm việc thiện giúp nhân dân. Khi mất, nàng được nhân dân lập đền thờ phụng và thêu dệt nên những câu chuyện về sự linh thiêng. Như vậy, cả Mẫu Tây Thiên và Mẫu Liều đều là con cầu tự, có gốc gác là thần tiên, là người duy hiếu duy trinh, có công trạng với dân và đều rất linh thiêng. Đặc biệt, mẫu Tây Thiên còn nhiều lần hiển linh âm phù, giúp vua đánh giặc. Mẫu Tây Thiên sau khi được triều đình phong tặng lần thứ hai (1450) mới nổi tiếng linh thiêng quốc đảo dân cầu đều ứng nghiệm, đây cũng là thời điểm Mẫu Liễu giáng sinh lần thứ nhất (1434 – 1473). Sự tương đồng về nguồn gốc và hành trạng, một phần nào đó về thời gian khiến cho dân gian dễ dàng chấp nhận sự phối thờ Mẫu Liễu cùng chư vị thánh thần trong phủ của bà trong điện thờ QMTT.

Mặt khác, trong tâm thức của người đi lễ không có sự phân biệt quá khắt khe giữa việc lễ Mẫu Tây Thiên hay lễ Mẫu Tứ phủ. Họ đi lễ mẫu, dù là Quốc Mẫu hay Thánh Mẫu cũng đều là đi lễ Mẹ – người có lòng bao dung, che chở, vị tha – để cầu mong được sức khỏe, tài lộc và bình an. Đây là yếu tố quan trọng khiến cho Mẫu Tứ phủ có thể lách luật để vào ngự trong điện thờ QMTT một cách khá dễ dàng và ngày càng phổ biến. Hơn nữa, mỗi thời đại, mỗi thế hệ có thái độ và cách ứng xử khác nhau đối với một hình thái tôn giáo, tín ngưỡng nào đó do nhu cầu tâm linh giữa các thế hệ là không giống nhau. Khi nhu cầu tâm linh đã thay đổi thì vai trò của thần thánh cũng thay đổi theo. Chẳng hạn, xưa kia, nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, mỗi khi có hạn hán, người ta lại lên núi Tam Đảo để cầu mưa thì nay, trong kinh tế thị trường, việc kinh doanh và lợi nhuận luôn chi phối cuộc sống của con người thì người ta lại đến đây để cầu tiền tài, danh lợi

Như vậy, cùng với chính sách mở cửa nền kinh tế thì xã hội Việt Nam trong khoảng hai chục năm trở lại đây có nhiều thay đổi. Sự phát triển về kinh tế, sự nâng cao của đời sống vật chất khiến cho nhu cầu văn hóa của người dân cũng có nhiều thay đổi. Trong bối cảnh ấy, hiện tượng Tam phủ – Tứ phủ hóa điện thần và tín ngưỡng thờ QMTT là một hiện tượng văn hóa nhằm đáp ứng nhu cầu của con người trong cuộc sống đương đại.

Tài liệu tham khảo

1.    Lê Kim Thuyên, Lê Kim Bá Yên, Tín ngưỡng thờ mẫu ở Vĩnh Phúc, Sở Văn hóa thể thao và Du lịch Vĩnh Phúc, 2009.

2.    Di sản văn hóa phi vật thể Vĩnh Phúc, Sở Văn hóa thể thao và Du lịch Vĩnh Phúc, 2008.

3.    Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các hình thức shaman trong các tộc người ở Việt Nam và châu á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004.

4.    Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu ở Việt Nam, tập 1, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1996.

5.    Nguyễn Thị Yên, Sự hình thành và biến đổi tục thờ mẫu ở Tây Thiên, Vĩnh Phúc, tham luận tại Hội thảo khoa học Quốc Mẫu Tây Thiên Vĩnh Phúc trong đạo Mẫu Việt Nam, 2010.

6.    Mấy vấn đề về Phật giáo ở Tây Thiên – Tam Đảo – Vĩnh Phúc, Viện Nghiên cứu Tôn giáo – Sở VHTTDL Vĩnh Phúc, 2009.

7.    Nguyễn Minh san, Bước đầu tìm hiểu đặc trưng của điện thờ Mẫu, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 3/1993, tr 80-82.

8.    Nguyễn Ngọc Thanh, Nguyễn Thế Trường, Tác động của đô thị hóa – công nghiệp hóa tới phát triển kinh tế và biến đổi văn hóa – xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2009.


* Viện Nghiên cứu Văn hóa.

9. Nguyễn Minh San, “Bước đầu tìm hiểu đặc trưng của điện thờ Mẫu, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 3/1993, tr. 81.

10. Thống kê của Ban Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Vĩnh Phúc năm 2007.

11. Nguyễn Thị Yên, Sự hình thành và biến đổi tục thờ mẫu ở Tây Thiên, Vĩnh Phúc, tham luận tại Hội thảo khoa học Quốc Mẫu Tây Thiên Vĩnh Phúc trong đạo Mẫu Việt Nam, 2010.

12. Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu ở Việt Nam, Nxb Văn hóa – thông tin, Hà Nội, 1996, tr 47 – 48.

(Theo: Thông báo văn hóa 2010, Nhiều tác giả, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011).

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *